Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

淨土大經解演義

Phần 48

Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Huệ Trang và Đức Phong

 

Tập 95

 

      Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang một trăm lẻ bảy, xem từ ba chữ cuối cùng:

      “Hựu bổn kinh trung đệ tam thập nhị phẩm hạ, Di Lặc đương cơ” (lại nữa, trong kinh này từ phẩm ba mươi hai trở đi, ngài Di Lặc là đương cơ). Đức Phật thuyết bộ kinh này gồm tổng cộng bốn mươi tám phẩm, trong ba mươi mốt phẩm đầu, tôn giả A Nan là đương cơ, trong các phẩm cuối từ phẩm ba mươi hai đến phẩm bốn mươi tám, Di Lặc Bồ Tát là đương cơ, điều này cũng hy hữu và là duyên phận thù thắng. Người đương cơ biểu thị loại căn cơ nào thích hợp để tu học pháp môn này. Di Lặc làm đương cơ có ư nghĩa rất sâu, v́ trong thời kỳ Mạt Pháp của đức Thế Tôn, trong xă hội hiện thời có rất nhiều tin đồn Di Lặc Bồ Tát đă thành Phật, sắp đến thế gian này hóa độ chúng sanh. Đấy là lời lẽ yêu mị dối người, về căn bản chẳng có chuyện này! Trong kinh, đức Phật đă nói rất rơ ràng, khi nào Di Lặc Bồ Tát sẽ đến thành Phật trong thế gian của chúng ta? Trong phần trước, chúng ta đă đọc thấy “tứ thiên niên chi hậu” (sau bốn ngàn năm), bốn ngàn năm ấy là bốn ngàn năm trên cơi trời Đâu Suất, không phải là bốn ngàn năm trong nhân gian chúng ta. Nay Di Lặc Bồ Tát đang ở Đâu Suất Thiên, thọ mạng của Đâu Suất Thiên là bốn ngàn tuổi. Sự khác biệt thời gian giữa Đâu Suất Thiên và thế gian chúng ta rất lớn, hiện nay [sự sai biệt ấy] được gọi là “thời sai”, một ngày trên ấy bằng bốn trăm năm trong nhân gian. Nếu nói theo nhân gian, thọ mạng con người rất dài th́ sống được một trăm năm, trên trời Đâu Suất cũng là một ngày gồm hai mươi bốn giờ, dùng thời gian trên trời Đâu Suất để tính toán, [người trong nhân gian thọ trăm tuổi] sống được bao nhiêu giờ? Sáu giờ. Sáu giờ của họ bằng một trăm năm của chúng ta, sai khác rất lớn. Đổi theo cách tính thời gian trên địa cầu, sẽ là năm mươi bảy ức sáu ngàn vạn năm, năm mươi bảy ức! Thời gian c̣n dài quá, rất ư là lâu! Trên thế gian nếu không có Phật xuất thế sẽ hết sức đáng thương, năm mươi bảy ức sáu ngàn vạn năm, tôi tính sai rồi! Nhưng Phật, Bồ Tát vô cùng từ bi, trong lúc không có Phật xuất thế, tuy hiện thời Thích Ca Mâu Ni Phật đă diệt độ, nhưng sức ảnh hưởng của Ngài, tức là pháp vận của lăo nhân gia là một vạn hai ngàn năm. Dựa theo cách ghi chép của tổ sư đại đức Trung Quốc từ xưa, Thích Ca Mâu Ni Phật sanh vào năm thứ hai mươi bốn đời Châu Chiêu Vương, lăo nhân gia nhập diệt vào năm thứ năm mươi ba đời Châu Mục Vương. Nếu tính theo cách này, phải biết từ khi Thích Ca Mâu Ni Phật diệt độ đến nay là ba ngàn lẻ ba mươi bảy năm, khác với cách tính của người ngoại quốc. Theo cách tính của người ngoại quốc th́ là hơn hai ngàn năm trăm năm, sai biệt sáu trăm năm. Chúng ta chẳng cần phải khảo cứu chuyện này, “phàm những ǵ có tướng đều là hư vọng”, chuyện này không quan trọng, điều quan trọng nhất là hiểu lư, chúng ta niệm Phật, cầu nhất tâm bất loạn, đó là trọng yếu.

      Do vậy, tuy Phật chẳng tại thế, kinh điển vẫn c̣n. Kinh Đại Thừa nói chỗ nào có kinh điển, chỗ đó có Pháp Thân của Như Lai hiện diện. Đức Phật dùng kinh giáo để độ chúng sanh, những thứ khác đều thuộc loại kỷ niệm, chẳng hạn như xá-lợi của Phật hoặc xương ngón tay đức Phật đều thuộc loại kỷ niệm. Dẫu quư vị đến xem cho nhiều, lễ bái nhiều đến đâu đi nữa, vẫn chẳng thể khai ngộ, cũng chẳng thành Phật. Chúng ta muốn khai ngộ, muốn thành Phật, vẫn phải nương theo giáo huấn trong kinh điển để nghiêm túc tu hành. Đó là chánh pháp, chẳng phải là mê tín, phải hiểu đạo lư này. “Di Lặc làm đương cơ” có nghĩa là trong thời kỳ Mạt Pháp, Di Lặc Bồ Tát dạy chúng ta pháp môn ǵ? Dạy chúng ta niệm Phật, dạy chúng ta cầu sanh Di Đà Tịnh Độ, chẳng phải là Di Lặc Tịnh Độ. Phải hiểu ư nghĩa này. Nếu chẳng hiểu ư nghĩa này, phần sau kinh, từ phẩm ba mươi hai trở đi, ngài Di Lặc làm đương cơ sẽ chẳng có ư nghĩa ǵ hết! Do vậy, chúng ta phải hiểu, phải thấu hiểu ư nghĩa biểu thị pháp của đức Phật. Không chỉ là hiện thời Di Lặc Bồ Tát dạy chúng ta phải niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tịnh Độ, mà trong tương lai, tức là vào năm mươi bảy ức sáu ngàn vạn năm sau, khi Di Lặc Bồ Tát đến thành Phật trong thế gian này, vẫn giảng bộ kinh này, vẫn tuyên dương Tịnh Độ, khuyên dạy mọi người niệm Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, [phải là như vậy] th́ sự biểu thị pháp mới là viên măn. Nếu không, Ngài biểu thị pháp có ư nghĩa ǵ đâu? Đối với những chỗ như thế này, xem kinh phải chú tâm, chớ nên hời hợt qua loa đọc lướt qua. V́ thế, ở chỗ này, [kinh điển] đă đặc biệt nhắc nhở chúng ta.

      Lại xem tiếp, “đệ tứ thập lục phẩm, Phật phó chúc Di Lặc đại sĩ viết: - Ngă kim như lư tuyên thuyết như thị quảng đại vi diệu pháp môn” (trong phẩm bốn mươi sáu, đức Phật phó chúc Di Lặc đại sĩ: “Ta nay đúng lư tuyên thuyết pháp môn vi diệu rộng lớn như thế”), đó là nói về bộ kinh này, “nhất thiết chư Phật chi sở xưng tán” (được hết thảy chư Phật khen ngợi). Ở đây chúng ta thấy, mười phương hết thảy chư Phật Như Lai tán thán Thích Ca Mâu Ni Phật tuyên dương pháp môn này, khuyên dạy đại chúng niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. “Phó chúc nhữ đẳng tác đại thủ hộ, đương linh thị pháp cửu trụ bất diệt” (dặn ḍ, giao cho các ông hăy bảo vệ lớn lao, khiến cho pháp này tồn tại lâu dài chẳng diệt). Đó là lời phó chúc của Thích Ca Mâu Ni Phật, mà cũng là lời căn dặn Di Lặc Bồ Tát, ông phải hộ tŕ pháp môn này, khiến cho pháp môn này tồn tại lâu dài trong thế gian, chẳng bị diệt mất. “Di Lặc thừa Phật phó chúc, hoằng tŕ thị kinh” (Di Lặc tuân lời Phật phó chúc, hoằng dương, hộ tŕ kinh này). Hoằng () là hoằng dương, Tŕ () là y giáo phụng hành, Di Lặc Bồ Tát cũng niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tịnh Độ. “Thị cố đại sĩ, bất đản đương lai Long Hoa hội thượng tất thuyết thử kinh” (v́ vậy, đại sĩ không chỉ trong tương lai ắt nói kinh này trong hội Long Hoa), Ngài tiếp nhận lời phó chúc của Thích Ca Mâu Ni Phật, lẽ nào trong ba hội Long Hoa chẳng giảng kinh này? Thích Ca Mâu Ni Phật nhiều lần tuyên thuyết bộ kinh này, chúng ta có thể suy luận trong tương lai Di Lặc Bồ Tát xuất hiện trong cơi đời, Ngài [thuyết pháp] chỉ có ba hội, không giống như đức Thế Tôn [Thích Ca Mâu Ni Phật]. Đức Thế Tôn là hơn ba trăm hội, ngài Di Lặc chỉ có ba hội. Chúng ta có lư do để tin tưởng, trong mỗi hội, Ngài đều giảng bộ kinh này, đều tuyên dương pháp môn này th́ mới chẳng phụ bạc sự phó thác của Thích Ca Mâu Ni Phật. Pháp môn này trọng yếu ngần ấy! “Trực thị tận vị lai tế diệc tất thường thuyết bất tuyệt” (măi cho đến đời vị lai ắt cũng thường nói chẳng dứt), chúng tôi đồng ư với cách nh́n của lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ trong câu này. V́ sao? V́ chỉ có pháp môn này có thể khiến cho người thuộc hết thảy căn tánh thượng trung hạ thành tựu viên măn trong một đời. Chỉ có pháp môn này là thành tựu viên măn trong một đời, tám vạn bốn ngàn pháp môn đều chẳng thể khiến cho quư vị thành tựu trong một đời. Do vậy, chúng ta rất may mắn gặp được pháp môn này, khó có lắm! Bài kệ Khai Kinh có câu: “Trăm ngàn vạn kiếp khó gặp gỡ”, cư sĩ Bành Tế Thanh nói: “Một ngày hiếm có khó gặp từ vô lượng kiếp đến nay” mà chúng ta đă gặp. Những người nói các câu ấy đều khó có, nếu chẳng phải thật sự là bậc tái lai sẽ không thể nói ra lời ấy được! Nay chúng ta có duyên nghe được, hăy nên nắm chắc nhân duyên hy hữu khó gặp này, quyết định thành tựu trong một đời này. Phải thật sự y giáo phụng hành, phải quyết định nắm chặt cơ hội này, chớ nên bỏ lỡ, đó là đúng. Di Lặc Bồ Tát được giới thiệu tới đây.

      Tiếp theo đó là giới thiệu Hiền Kiếp, v́ trong kinh văn có nói: “Cập Hiền Kiếp nhất thiết Bồ Tát” (và hết thảy các vị Bồ Tát trong Hiền Kiếp). Kiếp (Kalpa) là một danh xưng thời gian trong Phật pháp, là một khoảng thời gian rất dài. Kiếp được nói đến ở đây là “đại kiếp”. Kiếp có ba thứ: Tiểu kiếp, trung kiếp, và đại kiếp. Có rất nhiều cách giải thích tiểu kiếp, trong kinh có đến mấy cách nói, nhưng đức Phật thường dùng tuổi thọ của con người để nói. Tuổi thọ con người ngắn nhất là mười năm, đây là nói theo tuổi thọ b́nh quân (tuổi thọ trung b́nh) của cư dân trong thế gian này. Nói chung, tuổi thọ trung b́nh trong thế giới hiện thời là bảy mươi tuổi, cổ nhân thường nói: “Nhân sanh thất thập cổ lai hy” (người sống bảy mươi xưa nay hiếm). Trong thời đại Thích Ca Mâu Ni Phật xuất thế, tuổi thọ b́nh quân là một trăm tuổi. Khi con người thọ mười tuổi, cứ mỗi một trăm năm, tăng thêm một tuổi, tăng đến tám vạn bốn ngàn tuổi là đạt tới cực hạn; từ tám vạn bốn ngàn tuổi, cứ mỗi trăm năm bèn giảm một tuổi, lại giảm đến mười tuổi, [một chu kỳ] một tăng một giảm được gọi là một tiểu kiếp. Hai mươi tiểu kiếp là một trung kiếp, bốn trung kiếp là một đại kiếp. Hiền Kiếp (Bhadra-kalpa) là danh xưng của đại kiếp hiện thời. Chúng ta đang sống trong đại kiếp ấy, một đại kiếp có bốn trung kiếp, trung kiếp là Thành, Trụ, Hoại, Không, đó là bốn trung kiếp, mỗi trung kiếp gồm hai mươi tiểu kiếp, thời gian được tính theo cách như vậy. Hiện thời là Trụ kiếp trong Thành, Trụ, Hoại, Không, nay chúng ta đang thuộc Trụ Kiếp, “danh vi Hiền Kiếp” (có tên là Hiền Kiếp).

      “Tại thử đại kiếp trung, hữu thiên Phật xuất thế” (trong đại kiếp này có một ngàn vị Phật ra đời). V́ sao gọi là Hiền? Trong đại kiếp này có một ngàn vị Phật xuất hiện trong thế gian này. Thích Ca Mâu Ni Phật là vị thứ tư, vị thứ năm kế tục là Di Lặc Bồ Tát, đến thế gian này làm Phật, đây là vị Phật thứ năm. Phải biết sau khi pháp vận của Thích Ca Mâu Ni Phật kết thúc, vẫn phải là sau năm mươi bảy ức sáu ngàn vạn năm, Di Lặc Bồ Tát mới đến thế gian này thị hiện thành Phật. Thời gian không có Phật, không có giáo huấn của thánh nhân, tập tánh của chúng sanh rất khó dứt trừ, khổ chẳng thể nói được! Phật, Bồ Tát từ bi, trong thời gian không có Phật ấy, Địa Tạng Bồ Tát phát nguyện trụ trong thế giới, tiếp nhận sự phó thác của chư Phật Như Lai, thay thế Phật hóa độ chúng sanh. Chúng ta hăy suy nghĩ, trong khoảng thời gian dài ngần ấy, Phật xuất hiện đúng là “hoa Đàm thoáng hiện”, thời gian xuất hiện quá ngắn ngủi. Địa Tạng Bồ Tát từ bi đến cùng cực, pháp hội của Địa Tạng Bồ Tát thù thắng hơn các pháp hội Vô Lượng Thọ, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm. V́ sao? Thích Ca Mâu Ni Phật tại Đao Lợi Thiên Cung giảng kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện, ai đến tham gia pháp hội? Mười phương hết thảy chư Phật Như Lai. Quư vị nói xem có tuyệt diệu hay không? Trong các kinh điển khác, chúng ta thấy lúc đức Thế Tôn mở pháp hội, người nào tham gia? Mười phương Bồ Tát đến tham gia, Thanh Văn đến tham gia, chư thiên đến tham gia, chẳng thấy chư Phật Như Lai đều đến tham gia. V́ sao? Địa Tạng Bồ Tát phát tâm là thật, “địa ngục bất không, thệ bất thành Phật” (địa ngục chẳng trống, thề không thành Phật). Từ vô lượng kiếp đến nay, chẳng biết có bao nhiêu chư Phật Như Lai trong quá khứ đều là học tṛ hay tín đồ của Địa Tạng Bồ Tát, quư vị thấy họ đều thành Phật cả rồi, mà Địa Tạng vẫn thuộc địa vị Bồ Tát, vẫn ở trong thế giới khổ nạn ḥng giúp đỡ hết thảy chúng sanh.

      Địa Tạng tượng trưng cho “hiếu thảo cha mẹ, tôn trọng thầy”, hai câu trong Tịnh Nghiệp Tam Phước là “hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng” là cội rễ của hết thảy điều lành thế gian và xuất thế gian, Bồ Tát đại diện cho pháp môn này. V́ vậy, chúng ta trông thấy tượng Bồ Tát, nghe danh hiệu Bồ Tát, phải nghĩ tới “hiếu thân, tôn sư” (hiếu thảo với cha mẹ, tôn trọng thầy). Nếu kẻ nào bất hiếu với cha mẹ, bất kính sư trưởng, khỏi cần phải nói nữa, dẫu là kẻ tu hành tốt đẹp đến mấy vẫn là giả, chẳng thật, v́ sao? Kẻ ấy trái nghịch Tánh Đức. Do vậy, tại Trung Quốc vào thời cổ, quốc gia tuyển lựa nhân tài, quá nửa là những người ấy sẽ được trao quyền cai trị, điều kiện tiên quyết là phải hiếu thảo. Người ấy có thể hiếu thảo với cha mẹ, nhất định sẽ có thể yêu dân, trung với nước nhà, yêu mến, bảo vệ nhân dân. Điều kiện thứ hai là liêm khiết. [Gọi gộp chung hai điều ấy là] hiếu liêm, liêm sẽ không tham ô. Từ thời Hán Vũ Đế định ra quy chế ấy, “cử hiếu liêm”, “cử” () là tuyển cử, nơi nào có trẻ nhỏ là đứa con hiếu thảo, liêm khiết, quan viên nơi ấy phải chăm sóc nó cẩn thận. Thật vậy, quả nhiên là khá lắm, sẽ tuyển lựa nó, quốc gia vun bồi nó. Chế độ ấy vẫn được thực hành măi cho đến khi chánh quyền Măn Thanh vong quốc. Chỉ sau khi nhà Măn Thanh sụp đổ, Dân Quốc thành lập, chế độ ấy mới chẳng c̣n nữa! Chế độ ấy hay lắm. Quư vị thấy bao nhiêu triều đại thay đổi, nhưng chế độ như vậy vĩnh viễn được ǵn giữ, chẳng có triều đại nào không coi trọng vấn đề này, không triều đại nào dám phế bỏ chế độ ấy. V́ vậy, đây là một chế độ rất tốt đẹp!

      Hiền Kiếp, một ngàn vị Phật xuất hiện trong thế gian này. “Bi Hoa Kinh ngũ viết” (kinh Bi Hoa, quyển thứ năm nói), “ngũ” là quyển thứ năm, trong quyển ấy có một đoạn như thế này: “Thử Phật thế giới” (thế giới của vị Phật này), chữ “Phật” ở đây chỉ Thích Ca Mâu Ni Phật, nay đang trụ trong thế giới này, “đương danh Sa Bà, thời hữu đại kiếp, danh viết Hiền Thiện. Thị đại kiếp trung, hữu thiên Thế Tôn, thành tựu đại bi, xuất hiện ư thế” (sẽ có tên là Sa Bà, khi ấy có đại kiếp tên là Hiền Thiện. Trong đại kiếp ấy, có một ngàn vị Thế Tôn thành tựu đại bi, xuất hiện trong cơi đời), có một đoạn như thế. Nói rơ Thích Ca Mâu Ni Phật, Di Lặc Bồ Tát trong tương lai xuất hiện trong thế gian này, thế giới này cũng gọi là Sa Bà, đại kiếp ấy gọi là Hiền Kiếp hoặc Hiền Thiện. Sa Bà là tên gọi của thế giới, Thích Ca Mâu Ni Phật giáo hóa chúng sanh trong thế gian này, chúng tôi giới thiệu đơn giản danh từ này đôi chút[1]. “Giới danh, hựu tác Sa Ha, Sa Ha Lâu Đà” (tên của thế giới, c̣n gọi là Sa Ha, hoặc Sa Ha Lâu Đà), đều là tiếng Phạn, dịch âm khác nhau đôi chút, nhưng âm đọc đại khái vẫn là tương tự. “Tân dịch vi Sách Ha” (Tân dịch là Sách Ha), ở đây, Tân và Cựu lấy Huyền Trang đại sư để phân chia giới tuyến. Phiên dịch trước thời Huyền Trang đại sư là Cựu Dịch, những danh xưng nói trong phần trước đều là Cựu Dịch. Huyền Trang đại sư dịch thành Sách Ha, tương đối gần âm tiếng Phạn hơn, đó là Tân Dịch. Chúng ta học kinh giáo, do trước kia Huyền Trang đại sư phiên dịch kinh không ít, cho nên chúng ta phải nên hiểu đôi chút về ư nghĩa của Cựu Dịch và Tân Dịch để chẳng đến nỗi nẩy sanh hiểu lầm. Sa Bà nghĩa là ǵ? “Kham nhẫn chi nghĩa, nhân nhi dịch viết Nhẫn Độ” (nghĩa là có thể chịu đựng, do vậy, [Sa Bà] c̣n được dịch là Nhẫn Độ, tức cơi chịu đựng). Kham Nhẫn là quư vị thật sự có thể chịu đựng. Thế giới này rất khổ, cư dân ở nơi đây có thể chịu đựng; v́ thế, gọi là Sách Ha. Do đó, c̣n dịch là Nhẫn Độ, Độ là cơi đất này. [Nhẫn Độ nghĩa là] chúng sanh trong cơi này thật sự có thể chịu đựng nhiều nỗi khổ nạn; khổ nạn do đâu mà có? Chúng ta biết, trong kinh Hoa Nghiêm đă giảng rất rơ ràng, khổ nạn là do chúng ta mê hoặc tự tánh, tùy thuận tập tánh, tập tánh bất thiện, tạo tác đủ thứ nghiệp bất thiện, nên cảm quả báo. Nhân quả báo ứng rất hiện thực, khắp nơi đều là nó, bất cứ lúc nào cũng đều phát sanh, chỉ cần chúng ta lắng ḷng chú tâm quan sát, sẽ biết chuyện này chẳng tơ hào sai chạy, thiện có thiện quả, ác có ác báo.

      V́ sao nơi A Di Đà Phật trụ được gọi là thế giới Cực Lạc, c̣n thế giới của chúng ta gọi là thế giới Sa Bà? Cực Lạc và Sa Bà có ǵ khác biệt? Nói thật thà, hai thế giới b́nh đẳng, chẳng có mảy may sai biệt nào. Nhưng trong kinh Văng Sanh, Thích Ca Mâu Ni Phật đă giới thiệu thế giới Cực Lạc, thế giới ấy thật tốt đẹp, chẳng nghe nói thế giới Cực Lạc có kẻ bất thiện, chẳng nghe nói thế giới Cực Lạc có ngôn hạnh bất thiện, cũng chẳng nghe nói thế giới Cực Lạc có tai nạn ǵ! Thủy tai, phong tai, động đất, chưa hề nghe nói! Do nguyên nhân ǵ? Đức Phật cũng từ bi nói rơ với chúng ta: Thế giới ấy toàn là các vị thượng thiện nhân sống cùng một chỗ. Chúng ta bèn hiểu rơ: Thế giới Cực Lạc là một thế giới mới, giống như một khu vực mới trong thế gian này, vừa mới thành lập; thế giới Sa Bà là một khu rất cổ lỗ, đời đời kiếp kiếp chất chứa những nghiệp chướng tập khí chưa đoạn. Một khu vực mới được thành lập, trong ấy có cư dân hay không? Không có, khu vực mới không có cư dân cũ, [cư dân trong Tây Phương Cực Lạc] đều do A Di Đà Phật dùng bổn nguyện và oai thần tiếp dẫn người trong mười phương thế giới sanh về thế giới Cực Lạc; bởi lẽ, nó là một khu vực mới.

      Đến chỗ Ngài phải thỏa một điều kiện, điều kiện ǵ vậy? Điều kiện là Thập Thiện. A Di Đà Phật bảo chúng ta [cư dân trong cơi Cực Lạc] đều là thượng thiện nhân ở cùng một chỗ, chúng ta muốn đến đó, ắt phải tu thượng phẩm Thập Thiện mới có thể văng sanh. Mỗi ngày niệm Phật, niệm rất khá, mỗi ngày niệm mười vạn câu Phật hiệu, lâm chung có thể văng sanh hay không? Tùy thuộc cái tâm của quư vị là thiện hay bất thiện. Muốn xem ḷng của quư vị mà thiện bất thiện. Mười vạn câu chẳng sai, có công phu, nếu quư vị tu Thập Thiện, thượng phẩm Thập Thiện, ngay lập tức phê chuẩn, có thể di dân sang thế giới Cực Lạc. Mỗi ngày mười vạn câu Phật hiệu, tâm địa bất thiện, vẫn c̣n tham, sân, si, mạn, c̣n có tự tư tự lợi, kẻ ấy chẳng thể văng sanh. V́ sao? Công phu niệm Phật trọn đủ, đạt tiêu chuẩn, cho năm mươi điểm, nhưng các mặt khác không đủ điểm số, chẳng thể văng sanh! Do vậy, phải ghi nhớ, thượng phẩm Thập Thiện! Phải thật sự làm, chẳng thật sự làm sẽ không được! Hiện thời, tu thượng phẩm Thập Thiện như thế nào? Mấy năm qua, chúng tôi đặc biệt đề xướng ba căn bản của Nho, Thích, Đạo, đó là thượng phẩm Thập Thiện. Do vậy, chớ nên sơ sót! Đệ Tử Quy hoàn toàn chẳng thực hiện sẽ không thể về thế giới Cực Lạc, Cảm Ứng Thiên không thực hiện chẳng đến thế giới Cực Lạc. Hai thứ Cảm Ứng Thiên và Đệ Tử Quy đều thực hiện sẽ chẳng khác thượng phẩm Thập Thiện cho mấy, tôi tin [người ấy] chắc chắn có thể làm được [thượng phẩm Thập Thiện]. Chớ nên chẳng chú ư những lời đức Phật đă dạy trong kinh, chớ nên coi thường, nhất định phải hiểu rất rơ ràng, rất minh bạch, trong một đời này chúng ta hội đủ điều kiện của Tây Phương Cực Lạc thế giới, sẽ ổn thỏa, thích đáng đến được thế giới Cực Lạc. Điều này có cùng một đạo lư với việc di dân trong hiện thời, chúng ta hội đủ điều kiện sẽ có thể di dân sang thế giới Cực Lạc.

      Tu hành trong thế gian này vô cùng khó khăn, khó khăn lớn nhất là thọ mạng quá ngắn, tức là nói thời gian chúng ta tu học không đủ, c̣n chưa thành công, thọ mạng đă hết rồi. Đời sau sanh làm người, được tiếp tục mang thân người, tối thiểu bị gián đoạn hai mươi năm. Trong hai mươi năm chết sống ấy, gần như quên sạch sành sanh những thứ đă tu trong đời trước. Đời này tiếp tục tu bèn nhanh hơn một chút, vẫn chẳng bằng thọ mạng lâu dài ḥng có thể viên măn thành tựu trong một đời. Đến thế giới Cực Lạc, chuyện ấy sẽ được giải quyết. Người sanh về thế giới Cực Lạc sẽ giống như A Di Đà Phật, A Di Đà Phật vô lượng thọ, nên ai nấy trong thế giới Cực Lạc đều là vô lượng thọ. V́ vậy, gọi là “thành tựu viên măn trong một đời” v́ họ có thời gian. Dựa vào điều này, chúng ta thật sự hiểu minh bạch, rơ ràng: Chẳng thể không văng sanh! Đức Phật dạy chúng ta, những ǵ trong thế gian này chẳng thể đem sang thế giới Cực Lạc, hăy buông xuống toàn bộ; những ǵ có thể đem sang thế giới Cực Lạc, hăy khéo học tập, tu hành. Chớ nên không biết những ǵ có thể mang theo. Những ǵ sẽ mang theo được? Giới, Định, Huệ mang theo được, Thiền Định, Bát Nhă mang theo được, đoạn ác tu thiện, tích công lũy đức mang theo được. Tự tư tự lợi, tiếng tăm, lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần trong thế gian chẳng mang theo được. Chẳng mang theo được th́ phải thật sự buông xuống, chẳng có tơ hào lưu luyến; đối với những ǵ mang theo được bèn nghiêm túc học tập.

      Học Phật, mục tiêu chung cực là mong cầu minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật, đúng là trở về tự tánh. Chỉ cần chúng ta đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, chắc chắn sẽ thành tựu viên măn trong một đời. V́ sao gọi là một đời? Văng sanh thế giới Cực Lạc là một đời. Phải biết: Văng sanh là văng sanh ngay trong lúc c̣n sống, chẳng phải là chết rồi mới văng sanh. Chư vị đồng học nhất định phải hiểu rơ điều này! V́ thế, văng sanh là bất tử, A Di Đà Phật đến tiếp dẫn quư vị, quư vị c̣n chưa tắt hơi, vẫn là người sống. Quư vị thấy Phật đến tiếp dẫn, theo Phật ra đi, giă biệt người nhà, chào từ biệt họ rồi ra đi. Thân thể chẳng cần đến nữa, bỏ đi, chẳng mang theo thân thể, đấy là thứ rất bẩn thỉu, thế giới Cực Lạc là thế giới thanh tịnh, chẳng có thứ ǵ bẩn thỉu. Thân là cội nguồn của hết thảy ô nhiễm, cần phải vứt bỏ nó. Do vậy, đến thế giới Cực Lạc là ra đi trong khi c̣n sống, chẳng chết, ra đi trong lúc sống. Đến thế giới Cực Lạc, nơi đó là hóa sanh, chẳng phải là thai sanh. Thế giới Cực Lạc là hóa sanh, nên chẳng có nỗi khổ sanh, lăo, bệnh, tử. Đă thế, đức Phật giới thiệu thể chất [của người trong cơi Cực Lạc] là “tử ma chân kim sắc thân” (thân có như vàng ṛng màu tía được trau giồi sáng bóng), thân Kim Cang bất hoại, đều là từ tự tánh lưu lộ, giống như Phật, thân Phật có vô lượng tướng, mỗi tướng có vô lượng hảo. Nếu quư vị thật sự thấy, thật sự hiểu rơ, đă hiểu rơ th́ quư vị c̣n chẳng văng sanh ư? Quư vị c̣n có ǵ để lưu luyến trong thế gian này? Mảy may lưu luyến đều chẳng có, nhất tâm hướng về. Trong Di Đà Kinh Yếu Giải, Ngẫu Ích đại sư nói ư niệm “nhất tâm hướng về” chính là phát Vô Thượng Bồ Đề tâm, giảng rất tuyệt! Nói cách khác, quư vị đă hoàn toàn hội đủ điều kiện văng sanh. Do vậy, so sánh giữa hai thế giới, chúng ta rất coi trọng điều này.      

      “Pháp Hoa Văn Cú nhị viết” (Sách Pháp Hoa Văn Cú, quyển hai, chép) Pháp Hoa Văn Cú là tác phẩm chú giải [kinh Pháp Hoa] do Trí Giả đại sư soạn. Trong ấy có giải thích chữ Sa Bà: “Sa Bà thử phiên Nhẫn, kỳ độ chúng sanh an ư thập ác, bất khẳng xuất ly” (Sa Bà, cơi này dịch là Nhẫn. Chúng sanh trong cơi ấy an trụ trong Thập Ác, chẳng chịu xuất ly). Đây là hoàn cảnh hiện tại của chúng ta. “Tùng nhân danh độ, cố xưng vi Nhẫn” (do con người mà đặt tên cơi nước; v́ thế gọi là Nhẫn). Thật vậy, người trên thế giới này, đúng là an trụ trong Thập Ác, tức mười ác nghiệp: Sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói đôi chiều, nói thêu dệt, ác khẩu, tham lam, nóng giận, ngu si, quư vị thấy đó, mười điều ấy đều là tội nghiệp. Tạo tác mười loại nghiệp ấy, quả báo là trong tam đồ, tức ngạ quỷ, địa ngục, và súc sanh, quả báo ở nơi ấy, chẳng chịu xuất ly, lắm nỗi khổ sở! V́ họ (chúng sanh trong thế giới của chúng ta) có thể chịu đựng [những nỗi khổ sở ấy], nên trong tiếng Phạn bèn gọi [thế giới này] là Sa Bà. “Bi Hoa kinh vân: Vân hà danh Sa Bà? Thị chư chúng sanh nhẫn thọ Tam Độc cập chư phiền năo, cố danh Nhẫn Độ, diệc danh Tạp Hội, cửu đạo cộng cư cố” (Kinh Bi Hoa nói: “Cớ sao tên là Sa Bà? Các chúng sanh ấy chịu đựng Tam Độc và các phiền năo, nên gọi là Nhẫn Độ, c̣n gọi là Tạp Hội, [là chỗ để chúng sanh] thuộc chín đường cùng ở”). Trong thế gian này, Tạp Hội là tạp cư (ở lẫn lộn), tố chất của nhân dân rất phức tạp. [Kinh Bi Hoa] cũng nói các chúng sanh trong cơi ấy có thể chịu đựng tham, sân, si, mạn; tham, sân, si là Tam Độc, “cập chư phiền năo” (và các phiền năo), phiền năo nặng nhất là ngạo mạn và hoài nghi. Sự hoài nghi ấy chẳng tầm thường, mà là hoài nghi giáo huấn của thánh hiền. Hiện thời, chúng ta c̣n phải thêm một câu, “hoài nghi truyền thống của tổ tiên”, những thứ đó đều là phiền năo. V́ thế được gọi là Nhẫn Độ. Ư nghĩa Tạp Hội được câu tiếp theo nói rất rơ ràng: “Cửu đạo cộng cư” (chín đường cùng ở). Cớ sao có chín đường? Thông thường chúng ta chỉ nói sáu đường, nếu tách ra thành chín đường th́ cũng có thể nói thông suốt. Trong thiên đạo có Dục Giới Thiên, Sắc Giới Thiên, và Vô Sắc Giới Thiên, đó là ba đường, một biến thành ba. Trong địa ngục có Vô Gián địa ngục, có tám địa ngục lạnh, tám địa ngục nóng; do vậy, một cũng biến thành ba. V́ lẽ đó, đúng là vô cùng phức tạp, v́ sống trong thế gian này, trong thế giới này, ai nấy tâm đều bất thiện, tạo nghiệp khác nhau, quả báo cũng chẳng giống nhau. Đoạn này nhằm giải thích v́ sao thế giới này gọi là Sa Bà

      Tiếp đó, trong “Pháp Hoa Huyền Tán”[2] nói “Phạn vân Sách Ha, thử vân Kham Nhẫn, chư Bồ Tát đẳng hành lợi lạc thời, đa chư oán tật chúng khổ bức năo, kham nại lao quyện nhi nhẫn thọ cố, nhân dĩ vi danh. Sa Bà giả, ngoa dă” (tiếng Phạn là Sách Ha, cơi này dịch là Kham Nhẫn. Khi các vị như Bồ Tát v.v... hành lợi lạc, bị nhiều sự oán ghét, các thứ khổ sở bức bách, năo hại, nhưng các Ngài có thể chịu đựng nhọc nhằn, mệt mỏi, kiên nhẫn hứng chịu. V́ thế, lấy đó làm tên [của thế giới. Phiên âm thành] Sa Bà là sai). Ư nghĩa này khác với phần trước, trong phần trước nói về chúng sanh cư trụ, tức cư dân trong thế giới này, họ có thể chịu đựng những khổ nạn trong thế gian, đó gọi là “tự làm, tự chịu”. Trong Pháp Hoa Huyền Nghĩa[3] nói đến chư Phật, Bồ Tát, chúng sanh trong thế gian này tuy khổ, nhưng họ có cảm, có người mong cầu Phật, Bồ Tát, trong khi chịu khổ, chịu nạn, họ cầu Phật, Bồ Tát gia hộ, cầu Phật, Bồ Tát đến cứu chúng con. Chúng sanh dấy lên ư niệm ấy, Phật, Bồ Tát lập tức nhận được tin tức ấy, các Ngài có đến hay không? Đến chứ! Các Ngài đến giúp đỡ chúng ta, nên dùng thân ǵ để độ bèn hiện thân ấy. Các Ngài đến nơi đây để độ bọn chúng sanh chúng ta, trạng huống như thế nào? [Các Ngài] chịu khổ giống như chúng ta, có thể c̣n chịu khổ nhiều hơn chúng ta, có nghĩa là Phật, Bồ Tát ứng hóa trong thế gian để độ chúng sanh rất khổ, chẳng dễ độ! Nói tới ư nghĩa này. Quư vị thấy [sách Pháp Hoa Huyền Tán viết] “chư Bồ Tát đẳng”, chữ “đẳng” ấy nghĩa là ǵ? Có A La Hán, Bích Chi Phật, c̣n có chư thiên, chư thiên từ bi cũng đến thế gian giúp đỡ chúng sanh khổ nạn, họ đến “hành lợi lạc thời” (khi hành lợi lạc), lợi lạc chúng sanh, đến giúp chúng sanh, đến cứu khổ cứu nạn, nhưng như thế nào? “Đa chư oán tật chúng khổ bức năo”, [nghĩa là] Bồ Tát đến đây hảo tâm cứu giúp chúng sanh, nhưng vẫn có rất nhiều kẻ oán giận, ganh ghét các Ngài, c̣n có rất nhiều kẻ gây cho các Ngài đủ mọi nỗi phiền năo. Hiện thời, hiện tượng này được thấy rất rơ rệt: Người tin tưởng cầu Phật, Bồ Tát, kẻ không tin bèn nhục mạ người ấy là mê tín, nghĩ hết mọi cách để bài xích, chướng ngại người ấy. Độ chúng sanh rất khổ, nhưng những vị Bồ Tát ấy có thể nhẫn nại. “Kham nại lao quyện” (chịu đựng mệt mỏi, nhọc nhằn), đó là vất vả, khổ sở, “nhi nhẫn thọ cố” (kiên nhẫn hứng chịu). Ở đây, Bồ Tát tu Nhẫn Nhục Ba La Mật, thứ ǵ cũng đều nhẫn nại, “nhân dĩ vi danh” (do vậy, bèn lấy đó làm tên). Quư vị thấy đó, cư dân khổ sở, Phật, Bồ Tát đến nơi đây độ chúng sanh cũng khổ, nên gọi là thế giới Kham Nhẫn; do vậy, lấy đó làm tên. “Sa Bà giả, ngoa dă” ([phiên âm thành] Sa Bà là sai): Sa Bà là phiên âm thời cổ, phải nên phiên là Sách Ha, âm này (tức Sa Bà) so với nguyên âm khác biệt nhiều hơn[4]. “Tây Vực Kư nhất viết” (Tây Vực Kư quyển một viết), Tây Vực Kư do Huyền Trang đại sư viết, Ngài sang Ấn Độ thỉnh kinh mười mấy năm, có viết một quyển sách ghi lại những chuyện thấy nghe trên đường đi, mang tựa đề là Tây Vực Kư. “Sách Ha thế giới tam thiên đại thiên quốc độ, vi nhất Phật hóa nhiếp dă” (thế giới Sách Ha là cơi nước tam thiên đại thiên, là nơi hóa độ, nhiếp thọ của một vị Phật), đây là nói về Thích Ca Mâu Ni Phật, [nói về] khu vực giáo hóa của một vị Phật. “Cựu viết Sa Bà” (lối xưa, phiên âm là Sa Bà), “hựu viết Sa Ha, giai ngoa” (lại c̣n dịch là Sa Ha, đều sai). Những âm này đều không chính xác, nên Ngài phiên là Sách Ha. Đây là thuyết minh đơn giản câu “đương danh Sa Bà” (nên đặt tên là Sa Bà).

      “Thời hữu đại kiếp” (khi ấy, có đại kiếp), “thời” là lúc hiện tại, trong khoảng thời gian ấy, đại kiếp có tên là Hiền Kiếp, “danh viết Hiền Thiện” (tên là Hiền Thiện); trong đại kiếp ấy, “hữu thiên Thế Tôn, thành tựu đại bi xuất hiện ư thế” (có một ngàn vị Thế Tôn, thành tựu đại bi, xuất hiện trong cơi đời), “thành tựu đại bi” là đặc biệt nói rơ các vị Bồ Tát thị hiện thành Phật trong thế giới này nhằm giáo hóa chúng sanh, mang ư nghĩa này. “Cứ Phật Tổ Thống Kư” (Theo Phật Tổ Thống Kư), Phật Tổ Thống Kư[5] là một quyển sách trong Phật môn, có thể nói là sách lịch sử nhà Phật, có chép danh hiệu của mấy vị Phật, “đệ nhất Phật danh Câu Lưu Tôn Phật, thứ vi Câu Na Hàm Mâu Ni Phật, tam vi Ca Diếp Phật” (vị Phật thứ nhất tên là Câu Lưu Tôn Phật, vị kế đó là Câu Na Hàm Mâu Ni Phật, vị Phật thứ ba là Ca Diếp Phật), vị thứ tư là hiện tại, “tức vi kim chi Thích Ca Mâu Ni Phật, thử hậu hữu Di Lặc” (tức là Thích Ca Mâu Ni Phật trong hiện thời, sau đấy có ngài Di Lặc), đây là vị Phật thứ năm. Sau đó là chữ “đẳng” (vân vân), sau đấy c̣n có “cửu bách cửu thập lục Phật tương kế xuất thế” (chín trăm chín mươi sáu vị Phật kế tiếp nhau xuất thế). Đây là giới thiệu giản lược một ngàn vị Phật trong Hiền Kiếp lần lượt xuất hiện trên thế gian trong đại kiếp này. “Kim thử hội trung, Di Lặc dữ kỳ tha Hiền Kiếp trung thành Phật chi cửu bách cửu thập ngũ đại sĩ giai lai tập hội” (nay trong hội này, Di Lặc và chín trăm chín mươi lăm vị đại sĩ sẽ thành Phật trong Hiền Kiếp đều đến nhóm hội). Thích Ca Mâu Ni Phật ngự tại Linh Sơn, kinh này được nói tại Linh Sơn, cùng địa điểm với kinh Pháp Hoa, giảng kinh ở nơi ấy. Di Lặc Bồ Tát và chín trăm chín mươi lăm vị đại Bồ Tát sẽ thành Phật trong thế gian này vào thời tương lai của Hiền Kiếp đều đến tham gia pháp hội này. “Thính Phật thuyết pháp, cố tri Hiền Kiếp trung vị lai nhất thiết chư Phật giai tất đồng tuyên thử kinh” (nghe đức Phật thuyết pháp, nên biết hết thảy chư Phật vị lai trong Hiền Kiếp ắt sẽ đều cùng tuyên nói kinh này). Cụ Niệm Tổ có cách nh́n như thế, lư giải như thế, chúng ta thấy một ngàn vị Phật trong Hiền Kiếp đều đến tham dự pháp hội này, trong tương lai các Ngài thành Phật, lẽ nào chẳng giảng kinh này? Lẽ nào chẳng tuyên dương pháp môn này?      

      Tiếp theo đó, cụ Niệm Tổ thuyết minh đơn giản: “Biệt thuyết, Hiền Kiếp cộng nhất thiên linh ngũ Phật” (Thuyết khác cho rằng trong Hiền Kiếp có một ngàn lẻ năm vị Phật), tức là không kể Di Lặc Bồ Tát, đấy là một cách nói khác. Sau Di Lặc Bồ Tát c̣n có một ngàn vị Phật xuất thế, đó là [ư nghĩa của câu] “Di Lặc dĩ hạ nhất thiên linh nhất nhân” (từ Di Lặc trở đi là một ngàn lẻ một người), hiện thời chưa thành Phật, c̣n đang mang thân phận Bồ Tát. “Phi sở thường kiến, cố bất tường lục” (do chẳng thường thấy nên chẳng sao lục chi tiết), chẳng rườm lời, tỉnh lược [phần nêu danh hiệu cụ thể của các vị Phật trong Hiền Kiếp]. “Dĩ thượng đệ nhất phẩm, dĩ Tín, Văn, Thời, Chủ, Xứ, Chúng, lục chủng thành tựu, vi bổn kinh chứng tín. Kinh trung đại tỳ-kheo chúng vạn nhị thiên nhân, siêu việt dư kinh, đồng ư Pháp Hoa” (Trong phẩm thứ nhất, dùng Tín, Văn, Thời, Chủ, Xứ, Chúng, sáu thứ thành tựu để chứng tín kinh này. Giống như kinh Pháp Hoa, chúng đại tỳ-kheo trong kinh này là một vạn hai ngàn vị, trỗi vượt các kinh khác). Chúng ta đặc biệt lưu ư sự biểu thị pháp này, nói rơ tầm quan trọng của kinh này. Quư vị thấy đức Phật nói hết thảy các kinh, thông thường số lượng các vị tỳ-kheo đều là một ngàn hai trăm năm mươi người, chỉ riêng kinh Pháp Hoa là một vạn hai ngàn người, kinh này cũng là một vạn hai ngàn người, cho thấy pháp hội này và Pháp Hoa b́nh đẳng. Trong quá khứ, tổ sư đại đức bảo: Hết thảy các pháp do đức Thế Tôn đă nói trong bốn mươi chín năm có thể chia thành ba loại là Tiểu Thừa, Đại Thừa, và Nhất Thừa, chia thành ba loại ấy. Tiểu Thừa giảng về Thanh Văn và Duyên Giác, nói theo cách bây giờ là học hành đă đạt được học vị, Đại Thừa là Bồ Tát, Nhất Thừa là thành Phật. Đối với “kinh thành Phật” (kinh dạy pháp môn tu thành Phật), các vị tổ sư đại đức từ xưa đă khẳng định kinh thành Phật chỉ có ba bộ, tức là Hoa Nghiêm, Pháp Hoa và Phạm Vơng. Kinh Phạm Vơng chưa được truyền toàn bộ đến Trung Quốc, chỉ có một phẩm được truyền đến Trung Quốc, đó là Bồ Tát Giới Phẩm, tức là phẩm Bồ Tát Tâm Địa Giới trong bộ kinh ấy. Bộ kinh đó phân lượng cũng rất lớn, nhưng chưa được truyền tới. Tại Trung Quốc chỉ có Hoa Nghiêm và Pháp Hoa, nhưng tổ sư đại đức phán định kinh này cao hơn Hoa Nghiêm và Pháp Hoa, v́ sao? Hoa Nghiêm và Pháp Hoa đến cuối cùng đều là “mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc”. Nói cách này hợp lư, mà nói theo Lư cũng thông suốt. Nói cách khác, Hoa Nghiêm và Pháp Hoa là kinh Nhất Thừa, thành Phật trong một đời, [cho nên] kinh này cũng là thành Phật trong một đời.

      Sau đó lại nói: “Hựu Phổ Hiền tối vi thượng thủ, đồng ư Hoa Nghiêm kinh, diệc biểu bổn kinh chi đồng ư thượng chi Viên Giáo nhị kinh dă” (Hơn nữa, giống như kinh Hoa Nghiêm, Phổ Hiền Bồ Tát là vị Thượng Thủ đầu tiên của kinh này, điều này cũng biểu thị kinh này giống như hai kinh Viên Giáo vừa được nhắc đến trên đây). Đây là hai bộ kinh Nhất Thừa trong Viên Giáo, kinh này (kinh Vô Lượng Thọ) ngang hàng với hai kinh đó, chẳng sai biệt! V́ vậy, vào đời Thanh trước kia, cư sĩ Bành Tế Thanh đă gọi kinh này là Trung Bổn Hoa Nghiêm, kinh A Di Đà là Tiểu Bổn Hoa Nghiêm, quư vị thấy có ư nghĩa như vậy. Chúng ta phải đặc biệt lưu ư những đề xướng, chỉ dạy của các vị tổ sư đại đức. Trong toàn bộ Phật giáo, trong bốn mươi chín năm hoằng truyền của Thích Ca Mâu Ni Phật, bộ kinh này chiếm địa vị ra sao? Có thể nói bộ kinh này là chí cao vô thượng! Không chỉ ngang hàng với Hoa Nghiêm và Pháp Hoa, trên thực tế, nó c̣n cao hơn Hoa Nghiêm và Pháp Hoa. Kinh Hoa Nghiêm đến cuối cùng viên măn là mười đại nguyện vương của Phổ Hiền Bồ Tát dẫn về Cực Lạc, thật sự đạt tới viên măn rốt ráo, chúng ta chớ nên chẳng biết điều này. Nếu chúng ta nương theo Pháp Hoa và Hoa Nghiêm để tu hành, hy vọng thành công trong một đời này hết sức xa vời, mờ mịt. Các pháp môn ấy phải tu Định, Pháp Hoa tam-muội chẳng dễ thành tựu, Pháp Giới Quán như trong kinh Hoa Nghiêm người tầm thường chẳng thể quán thành. Quư vị thấy phương pháp trong bộ kinh điển này, trong bốn mươi tám nguyện có nói “khi lâm chung, mười niệm nhất định văng sanh”. Do vậy, Thiện Đạo đại sư tán thán pháp môn này là “vạn người tu, vạn người đến”, chẳng bỏ sót một ai! Chúng ta đă gặp gỡ, may mắn lắm! Dẫu trong đời này, chúng ta học Phật cũng thế, mà không học Phật cũng thế, trong quá khứ và đời này đă tạo chẳng ít tội nghiệp, có thể văng sanh hay không? Có thể! Chỉ cần quư vị sau khi nghe pháp môn này, hạ quyết tâm “quay đầu là bờ”, ta chẳng c̣n làm ác nữa, ta thật sự nhất tâm tu học Thập Thiện, thật thà niệm Phật, cầu sanh Tịnh Độ, là được rồi. Quá khứ tạo tác tội Thập Ác, Ngũ Nghịch cũng được, vẫn có thể văng sanh, tuyệt diệu chưa? Đúng là quay đầu là bờ! Chúng ta chớ nên không biết điều này, nhất định phải quư trọng duyên phận thù thắng khôn sánh này.

      Chúng ta học phẩm thứ nhất tới đây, dưới đây, chúng ta xem phẩm thứ hai là Đức Tuân Phổ Hiền. Chúng ta thấy trước đó cụ Hoàng Niệm Tổ mào đầu: “Đệ nhị phẩm thị thượng phẩm thánh chúng chi bổ sung” (phẩm thứ hai là phần nói chi tiết thêm về thánh chúng trong phẩm trước). Chúng Thành Tựu trong sáu thứ thành tựu chỉ nói đến xuất gia Bồ Tát, tại gia Bồ Tát chưa nhắc tới, phải nói bổ sung trong phần kế tiếp. “Bổn phẩm chi thủ, ư Bồ Tát chúng trung, niêm xuất thượng thủ chi Hiền Hộ đẳng thập lục Chánh Sĩ”ầu phẩm này, trong hàng Bồ Tát, lại nêu lên mười sáu vị Chánh Sĩ thượng thủ như Hiền Hộ v.v...), mười sáu vị đại Bồ Tát ấy đều là Đẳng Giác Bồ Tát, toàn là tại gia Bồ Tát. “Phẩm mạt” (phẩm cuối cùng), tức cuối phẩm bốn mươi tám, “phục tiêu dư chi tam chúng cập chư thiên đại chúng, dĩ bổ túc thượng phẩm” (lại nêu ba chúng kia và chư thiên đại chúng nhằm bổ túc phẩm đầu), tức phẩm trước của phẩm này, “lục thành tựu trung chi Chúng Thành Tựu” (Chúng Thành Tựu trong sáu thứ thành tựu), nói rơ ở đây. “Vưu ưng trước nhăn” (càng đáng chú ư nhất), tức là phải lưu ư, “bổn phẩm danh Đức Tuân Phổ Hiền” (phẩm này có tên là Đức Tuân Phổ Hiền), ư nghĩa của tiểu đề này vô cùng trọng yếu, “cái biểu dự hội chi vô lượng vô biên chư đại Bồ Tát, hàm cộng tuân tu Phổ Hiền chi đức” (biểu thị vô lượng vô biên chư đại Bồ Tát dự hội đều cùng tuân tu đức của Phổ Hiền). Quư vị nói xem kinh này có tuyệt vời hay chăng? “Đều cùng tuân tu đức của Phổ Hiền” là ở nơi đâu? Trong kinh Hoa Nghiêm, tức là trong Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, chư Phật, Bồ Tát vị nào cũng đều tu “Phổ Hiền chi đức”, “Phổ Hiền chi đức” là mười đại nguyện vương, thành tựu viên măn trong một đời. Kinh này chẳng ra ngoài lệ ấy. “Phổ Hiền chi đức, thật diệc vô lượng” (đức của Phổ Hiền thật sự cũng là vô lượng), nói thật với quư vị th́ là vô lượng vô biên, “nhi kỳ tâm trung chi tâm, yếu trung chi yếu, tắc vi thập đại nguyện vương đạo quy Cực Lạc dă, thị vi bổn phẩm chi cương” (nhưng điểm cốt lơi, trọng yếu nhất lại chính là “mười đại nguyện vương dẫn dắt về Cực Lạc”. Đó là cương lănh của phẩm này). Tổng cương lănh của phẩm kinh này là mười đại nguyện vương của Phổ Hiền Bồ Tát, Phổ Hiền nguyện, Phổ Hiền đức thật sự là vô lượng, vô biên, vô tận, vô số. Cụ Hoàng nói rất hay, “tâm yếu”: “Tâm trung chi tâm, yếu trung chi yếu” (điều cốt lơi nhất trong các điều cốt lơi, điều trọng yếu trong các điều trọng yếu) chính là mười đại nguyện vương. Do vậy, chúng ta phải học mười đại nguyện vương, có thể học bao nhiêu bèn học bấy nhiêu, đối với chính ḿnh chắc chắn có lợi ích.

      Đầu tiên là phải học “lễ kính chư Phật”, đối với bất cứ ai đều phải lễ kính. V́ sao? Hết thảy chúng sanh là vị lai Phật, há có thể chẳng lễ kính ư? Chúng ta lạy Phật, phải lạy ba đời mười phương chư Phật, ba đời là đời quá khứ, đời hiện tại, trong kinh, Thích Ca Mâu Ni Phật đă giới thiệu, đời vị lai, đức Phật đă nói “hết thảy chúng sanh đều là vị lai Phật”. Chúng ta chẳng cung kính một người hay chẳng cung kính một động vật nhỏ chính là chẳng cung kính vị lai Phật. Từ chỗ này, có thể thấy được đại đức và đại nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát. Không chỉ là đối với hết thảy hữu t́nh chúng sanh, chúng ta phải có ư niệm kính trọng chân thành, phải lễ kính viên măn, trong kinh Hoa Nghiêm đức Phật c̣n dạy: “T́nh và vô t́nh, cùng viên thành Chủng Trí”. Chúng ta chỉ nói động vật là hữu t́nh, c̣n vô t́nh th́ sao? Thực vật, khoáng vật, núi, sông, đại địa là vô t́nh. Vô t́nh chúng sanh cùng viên thành Chủng Trí, câu này chẳng thể nghĩ bàn, cũng có nghĩa là vô t́nh chúng sanh cũng sẽ thành Phật. Nay chúng tôi đă hiểu rơ, trước kia chẳng hiểu nổi câu này! Bao nhiêu năm qua, chúng tôi đă bị khốn đốn bởi câu kinh văn này, giảng theo cách nào? Tôi thân cận rất nhiều vị đại đức, thưa hỏi họ câu này th́ họ cũng chẳng giảng câu này rơ ràng cho lắm. Giảng kha khá một chút là hữu t́nh chúng sanh thành Phật th́ núi, sông, đại địa cũng đều thành tựu. Cách giảng ấy không sai, nhưng chưa thể khiến cho chúng tôi tâm phục, khẩu phục. Măi cho đến lúc chúng tôi học tập Hoa Nghiêm, học bộ Tu Hoa Nghiêm Áo Chỉ Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán của Hiền Thủ quốc sư mới hoảng nhiên đại ngộ. Tác phẩm ấy giảng về nguyên khởi của vũ trụ rơ ràng, minh bạch. Trước khi đọc kinh luận ấy, tuy kinh giảng rất rơ ràng, minh bạch, nhưng đối với căn tánh của chúng tôi th́ vẫn chưa được, thô tâm đại ư, chưa thấu hiểu được! Kinh thường nói: “Nhất niệm bất giác bèn có vô minh”, lại nói: “Vô minh bất giác sanh tam tế, cảnh giới làm duyên tăng trưởng lục thô”, đối với những điều kinh luận Duy Thức đă nói, chúng ta cũng biết nói, nhưng thường là nói chẳng rơ ràng, đối với những phần kinh văn ấy, từ đầu đến cuối là lơ mơ, chẳng hiểu rơ. Từ Hoa Nghiêm, từ Hoàn Nguyên Quán mới hiểu rơ ràng, mới hiểu điều ǵ? Nguyên lai là trong tất cả hiện tượng vật chất đều có hiện tượng tinh thần, tâm và vật chẳng thể tách rời, vĩnh viễn chẳng tách rời. Trong một vi trần có tin tức viên măn, đương nhiên hữu t́nh và vô t́nh cùng viên măn Chủng Trí. Hiểu rơ chân tướng của chuyện này, không chỉ có tâm cung kính đối với con người, mà đối với một tảng đá, một hạt cát hay bụi đều trọn đủ tâm cung kính, quư vị mới thực hiện được sự lễ kính chư Phật của Phổ Hiền Bồ Tát. Ta cung kính hết thảy mọi người, cung kính thiên địa, quỷ thần, nhưng thiếu tâm cung kính đối với bùn, cát và những hiện tượng tự nhiên th́ sự lễ kính chư Phật của quư vị vẫn c̣n thiếu sót to lớn, mà chính ḿnh chẳng biết! Phạm vi của lễ kính to như thế, phạm vi của mỗi điều trong chín điều kia đều là khắp pháp giới hư không giới. Chúng ta là người tu học Đại Thừa, cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, chớ nên không biết điều này. Đă biết, hăy thật sự làm, trong tương lai phẩm vị văng sanh sẽ cao, phẩm vị của chính ḿnh được nâng cao với một mức độ lớn.

      Bây giờ chúng ta xem kinh văn, đoạn kinh này nói về mười sáu vị Chánh Sĩ nhằm bổ sung phần Bồ Tát Chúng phía trước.

 

      (Kinh) Hựu Hiền Hộ đẳng thập lục Chánh Sĩ, sở vị: Thiện Tư Duy Bồ Tát, Huệ Biện Tài Bồ Tát, Quán Vô Trụ Bồ Tát, Thần Thông Hoa Bồ Tát, Quang Anh Bồ Tát, Bảo Tràng Bồ Tát, Trí Thượng Bồ Tát, Tịch Căn Bồ Tát, Tín Huệ Bồ Tát, Nguyện Huệ Bồ Tát, Hương Tượng Bồ Tát, Bảo Anh Bồ Tát, Trung Trụ Bồ Tát, Chế Hạnh Bồ Tát, Giải Thoát Bồ Tát, nhi vi Thượng Thủ.

   ()又賢護等十六正士。所謂善思惟菩薩。慧辯才菩薩。觀無住菩薩。神通華菩薩。光英菩薩。寶幢菩薩。智上菩薩。寂根菩薩。信慧菩薩。願慧菩薩。香象菩薩。寶英菩薩。中住菩薩。制行菩薩。解脫菩薩。而為上首。

      (Kinh: Lại có nhóm Hiền Hộ mười sáu vị Chánh Sĩ, tức là: Thiện Tư Duy Bồ Tát, Huệ Biện Tài Bồ Tát, Quán Vô Trụ Bồ Tát, Thần Thông Hoa Bồ Tát, Quang Anh Bồ Tát, Bảo Tràng Bồ Tát, Trí Thượng Bồ Tát, Tịch Căn Bồ Tát, Tín Huệ Bồ Tát, Nguyện Huệ Bồ Tát, Hương Tượng Bồ Tát, Bảo Anh Bồ Tát, Trung Trụ Bồ Tát, Chế Hạnh Bồ Tát, Giải Thoát Bồ Tát làm Thượng Thủ).

 

      Đây là giới thiệu đức hiệu của mười sáu vị Thượng Thủ Bồ Tát. Ư nghĩa biểu thị pháp rất sâu, bao hàm ư nghĩa đặc biệt. Trong hàng xuất gia Bồ Tát thuộc phần trước, chỉ nêu tên ba vị, tại gia Bồ Tát nêu ra mười sáu vị, điều này có ư nghĩa ǵ? Chúng ta phải hiểu rơ, pháp môn này đặc biệt dành cho các đồng học tại gia tu tập, thích hợp nhất đối với sự tu hành tại gia. Mười sáu vị Bồ Tát có địa vị b́nh đẳng với Văn Thù, Phổ Hiền, Di Lặc. Tại gia có thể thành tựu Đẳng Giác Bồ Tát, chúng ta chớ nên không hiểu đạo lư này. Chúng ta đọc lời chú giải của lăo cư sĩ: Chánh Sĩ giả”, trước tiên giải thích Chánh Sĩ là ǵ, “Độ Thế Kinh viết: Khai Sĩ, Đại Sĩ, Thánh Sĩ, Lực Sĩ, Chánh Sĩ đẳng, giai Bồ Tát chi dị xưng” (Kinh Độ Thế[6] nói: “Khai Sĩ, Đại Sĩ, Thánh Sĩ, Lực Sĩ, Chánh Sĩ v.v... đều là tên gọi khác của Bồ Tát”). Trong kinh Phật có nhiều cách xưng hô như thế, quư vị thấy những danh xưng ấy toàn là biệt hiệu của Bồ Tát. Trong kinh Độ Thế nói tới Khai Sĩ, th́ Khai () là khai ngộ, chẳng phải là khai ngộ tầm thường, mà là đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, người như vậy được gọi là Khai Sĩ, Bồ Tát, hoặc Pháp Thân Bồ Tát. Đối với danh xưng Đại Sĩ, quư vị thấy chúng ta nói Quán Âm Đại Sĩ, Phổ Hiền Đại Sĩ, đấy cũng chính là Ma Ha Tát trong tiếng Phạn, [nghĩa là] Đại Bồ Tát, đều là danh xưng của Pháp Thân Bồ Tát. Thánh Sĩ: Thánh nhân, chẳng phải là con người, thánh ở đây là đại thánh, chẳng phải là tiểu thánh. A La Hán, Bích Chi Phật, Quyền Giáo Bồ Tát được coi là tiểu thánh, c̣n những vị này là đại thánh. Lực Sĩ là danh xưng thường dùng trong Mật Tông, như Kim Cang Lực Sĩ[7] thường được nói tới trong [các kinh sách của] Mật Tông. Chánh Sĩ: Chánh là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Bồ Tát là Chánh Đẳng Chánh Giác, gọi là Chánh Sĩ. Pháp Thân Bồ Tát đều là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chỉ kém một chút là tập khí vô minh vẫn c̣n, do [tập khí] có dầy hay mỏng khác nhau, cho nên có bốn mươi mốt đẳng cấp. Đối với hết thảy cảnh duyên, các Ngài thật sự chẳng khởi tâm, không động niệm, chúng ta phải biết điều này.

      Chúng ta lại xem tiếp: “Chân Giải vân” (sách Chân Giải nói), trong phần trước tôi đă giới thiệu cùng quư vị, đây là tác phẩm chú giải của tổ sư đại đức Nhật Bản, “Chánh vị chánh đạo, Sĩ vị sĩ phu” (Chánh là chánh đạo, Sĩ là sĩ phu), đấy là bậc sĩ đại phu, “tại gia chi xưng. Thử đẳng đại sĩ, ngoại hiện phàm h́nh, nội thâm đạt chánh đạo cố, cư gia danh vi Chánh Sĩ” (là danh xưng của người tại gia. Các vị Đại Sĩ này ngoài hiện h́nh tướng phàm phu, bên trong thấu hiểu sâu xa chánh đạo, sống tại gia, gọi là Chánh Sĩ). Đây là tại gia Bồ Tát, tại Trung Quốc, người tu hành tại gia được gọi là Cư Sĩ. Cư sĩ là người tại gia tu đạo nên gọi là Cư Sĩ. Nói chung, đối với các vị Đại Sĩ, tức hàng Pháp Thân Bồ Tát, có nhiều danh xưng, đối với tại gia Bồ Tát [th́ các danh xưng] Khai Sĩ và Chánh Sĩ cũng được dùng rất nhiều, thường thấy [sử dụng trong giới Phật giáo]. “Ngoại hiện phàm h́nh”, “phàm h́nh” là thân phận tại gia, trên thực tế là “thâm đạt chánh đạo”, “đạt” () là thông đạt, chẳng phải là nông cạn, tầm thường, mà là “thâm đạt”, “thâm” nghĩa là minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật. Đời Đường, thuở Lục Tổ tại thế, trong hội của Ngài có bốn mươi ba người minh tâm kiến tánh, trong đó có tại gia cư sĩ chứng đắc quả vị Pháp Thân Bồ Tát.

      “Hựu Hội Sớ viết: Thập lục Chánh Sĩ giả, Văn Thù Sư Lợi Nghiêm Tịnh Kinh ngôn” (sách Hội Sớ lại nói: “Mười sáu vị Chánh Sĩ, kinh Văn Thù Sư Lợi Nghiêm Tịnh nói”), đây là danh xưng của một bộ kinh, tức là Văn Thù Sư Lợi Nghiêm Tịnh Kinh[8], kinh ấy nói: “Bồ Tát bát vạn tứ thiên cập thập lục Chánh Sĩ” (Bồ Tát tám vạn bốn ngàn và mười sáu vị Chánh Sĩ). Có thể thấy là mười sáu người này thường được đức Thế Tôn nêu lên làm thí dụ, gương mẫu, khuôn phép trong khi giảng kinh, giáo học. “Tắc minh tri Chánh Sĩ chi danh, vân cư gia Bồ Tát” (cho thấy danh xưng Chánh Sĩ chỉ hàng tại gia Bồ Tát), nói rơ mười sáu vị này đều là tại gia đại Bồ Tát, chẳng phải là kẻ tầm thường. “Chánh vị chánh đạo, Sĩ vị cư sĩ” (Chánh là chánh đạo, Sĩ là cư sĩ), Hoàng lăo cư sĩ nói như vậy, chúng ta càng dễ hiểu. “Thử đẳng đại sĩ, tuy bảo quang ḥa trần” (các vị đại sĩ ấy, tuy sống lẫn với phàm nhân), Trung Quốc cũng có một thành ngữ có tánh chất hoàn toàn tương đồng là “ḥa quang đồng trần”, ḥa quang đồng trần và câu này (bảo quang ḥa trần) có ư nghĩa hoàn toàn giống nhau. “Cửu xuất ư tà đạo, thâm đạt ư chánh pháp, cố vân Chánh Sĩ dă” (đă thoát khỏi tà đạo từ lâu, thông đạt sâu xa chánh pháp, nên gọi là Chánh Sĩ), đây là cổ đại đức giải thích danh từ này. “Chuẩn thượng khả tri, Chánh Sĩ giả, tức tại gia Bồ Tát” (chuẩn theo những điều trên đây có thể biết Chánh Sĩ chính là tại gia Bồ Tát), đây là lời tổng kết, nhằm kết luận mười sáu vị trên đây toàn là tại gia Bồ Tát. “Hựu thập lục giả, Mật Tông dĩ thập lục số, biểu viên măn vô tận” (Lại nữa, Mật Tông dùng con số mười sáu để biểu thị sự viên măn vô tận); do vậy, đối với mười sáu vị này, con số mười sáu cũng nhằm biểu thị pháp, dùng các Ngài để đại diện viên măn chúng tại gia. “Xuất Sanh Nghĩa vân” (sách Xuất Sanh Nghĩa nói), Xuất Sanh Nghĩa[9] là tên một quyển sách, là một bộ luận, chúng ta cũng có thể nói trong bài luận văn ấy lại giảng: “Quyết hữu hà sa trần hải số lượng, cử thập lục vị yên, diệc trần sa chi số bất xuất ư thử hỹ” (Số lượng dẫu nhiều như hằng sa biển các vi trần, cũng chỉ nêu ra mười sáu vị mà thôi, số nhiều như trần sa cũng chẳng ra ngoài số này), nói rơ “mười sáu” là biểu thị pháp. Chúng ta đừng nên nghĩ nó là một con số, mà phải thấy nó là biểu thị pháp, ư nghĩa sẽ càng viên măn. V́ sao? Trong đại hội này, hàng tại gia học Phật chứng đắc minh tâm kiến tánh chắc chắn không chỉ là mười sáu vị, cho nên “mười sáu” biểu thị sự viên măn. Ư nghĩa này hay lắm, gồm trọn hết thảy những người tại gia đă đạt tới tŕnh độ này.

      Tiếp đó là giới thiệu từng vị một, đầu tiên là giới thiệu Hiền Hộ. “Hiền Hộ đẳng thập lục Chánh Sĩ, thường kiến kinh luận” (Nhóm Hiền Hộ mười sáu vị Chánh Sĩ thường thấy [nhắc tới] trong kinh luận). Trong khi giảng kinh, giáo học, đức Phật thường lấy các vị này làm thí dụ. “Thắng Tư Duy Phạm Thiên Kinh cập Tư Ích Kinh, liệt thập lục danh. Trí Độ Luận tiêu thập lục, đản cẩn liệt lục danh” (Kinh Thắng Tư Duy Phạm Thiên và kinh Tư Ích có nêu tên mười sáu vị này. Trí Độ Luận nhắc đến mười sáu vị, nhưng chỉ nêu tên sáu vị đầu), nêu ra mười sáu vị, nhưng [Trí Độ Luận] chỉ kể tên sáu vị. “Luận viết” (Luận chép), Luận ở đây là Đại Trí Độ Luận, “Thiện Thủ”, Thiện Thủ chính là Hiền Hộ, tức là sự thủ hộ hiền thiện, có ư nghĩa này. “Đẳng thập lục Bồ Tát thị cư gia Bồ Tát. Hạ liệt ngũ danh, tư bất cụ dẫn” (mười sáu vị Bồ Tát là tại gia Bồ Tát, kế đó nêu tên năm vị, ở đây không nêu tên đầy đủ), tỉnh lược, chứng tỏ những vị này đều là đại Bồ Tát tại gia học Phật, minh tâm kiến tánh, đại triệt đại ngộ được đức Thế Tôn nhắc đến. “Tư Ích Kinh vân: Nhược hữu chúng sanh văn danh giả, tất cánh đắc Tam Bồ Đề, cố vân Thiện Thủ” (Kinh Tư Ích nói: “Nếu có chúng sanh nghe tới tên Ngài sẽ rốt ráo đắc Tam Bồ Đề. V́ vậy, gọi Ngài là Thiện Thủ”). Tam Bồ Đề (Sambodhi) là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Có thể thấy những vị Bồ Tát này, trí huệ, thần thông, đạo lực có thể làm cho hết thảy chúng sanh nghe danh hiệu các Ngài cũng đạt được Tam Bồ Đề. V́ thế, danh hiệu, pháp danh đức hiệu của Ngài là Hiền Hộ, Thiện Thủ có nghĩa là Hiền Hộ. “Hựu Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Kinh” (lại nữa, kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ), đức Thế Tôn đặc biệt giới thiệu Hiền Hộ Chánh Sĩ với mọi người, giảng về Ngài trong buổi giảng ấy, trong kinh ấy có nói: “Vương Xá đại thành hữu ưu-bà-tắc, danh viết Hiền Hộ, vi chúng thượng thủ” (Đại thành Vương Xá có ưu-bà-tắc tên là Hiền Hộ, là thượng thủ của đại chúng), Ngài là thượng thủ của hàng cư sĩ. “Hựu Đại Bảo Tích Kinh Hiền Hộ Trưởng Giả hội” (lại nữa trong hội Hiền Hộ Trưởng Giả của kinh Đại Bảo Tích), Bảo Tích là một trong hơn ba trăm hội của đức Thế Tôn; hội này có quy mô rất lớn, trong hội này, đức Phật nói rất nhiều kinh điển, nói mấy chục bộ. Đây là một đại pháp hội, thời gian cũng rất dài, trong hội này, tức là trong hội Đại Bảo Tích cũng có nói kinh Vô Lượng Thọ. “Phật thuyết Hiền Hộ trưởng giả chúng lạc sự” (đức Phật nói về các điều vui sướng của trưởng giả Hiền Hộ), “lạc” là yêu chuộng, chuyện vui sướng. “Kỳ thọ ư khoái lạc quả báo, tuy phục Đao Lợi Đế Thích Thiên Vương do bất năng cập, huống phục nhân gian” (hưởng quả báo vui sướng, dẫu là Đao Lợi Đế Thích Thiên Vương c̣n chưa thể sánh bằng, huống hồ nhân gian). Có nhân ắt có quả, Phật pháp đă thật sự đem lại sự thọ dụng chân thật cho con người.

      Thuở tôi học Phật, v́ lúc tuổi trẻ học hành trong trường, chịu ảnh hưởng của giáo viên, thầy đôi khi cũng bàn tới tôn giáo, luôn bảo tôn giáo là mê tín. V́ thế, đối với tôn giáo, chúng tôi cũng hiểu lầm rất sâu, chẳng muốn tiếp xúc tôn giáo, luôn nghĩ tôn giáo là mê tín. Nhân duyên khiến tôi học Phật là do học Triết Học với tiên sinh Phương Đông Mỹ, thầy Phương giảng một bộ Triết Học Khái Luận, phần cuối cùng là Triết Học Trong Kinh Phật. Tôi rất hiếu kỳ, hỏi thầy: “Tôn giáo là mê tín, Phật giáo là phiếm thần giáo, đa thần giáo, là mê tín nhất trong các thứ mê tín, làm sao có triết học cho được?” Thầy bảo tôi: “Anh c̣n trẻ, không biết, Thích Ca Mâu Ni Phật là triết gia vĩ đại nhất trên thế giới”. Tôi học Triết Học, chưa hề nghe nói Thích Ca Mâu Ni Phật là triết gia. Thầy lại bảo tôi: “Triết học trong kinh Phật là đỉnh cao nhất của triết học trong toàn thế giới, học Phật là hưởng thụ cao nhất trong đời người”. Kinh nói tới điều này, Hiền Hộ Bồ Tát học Phật tới mức pháp hỷ sung măn; nói cách khác, đạt tới sự hưởng thụ cao nhất trong thế gian. Câu này có cùng một ư nghĩa với câu nói của thầy Phương bảo tôi thuở ấy. Tôi đọc câu này có cảm xúc cũng rất sâu, có đạt được sự hưởng thụ tối cao ấy hay không? Tôi đă học Phật năm mươi chín năm, sang năm là đúng một giáp, đă sáu mươi năm rồi, thật sự đạt được, hằng ngày đều đạt được, hoan hỷ khôn sánh, chứng thực lời cổ đức đă bảo: “Ư vị thế gian há nồng đậm bằng pháp vị?” Nếu đem ư vị của nhân gian thiên thượng sánh với pháp vị, chẳng có cách nào sánh bằng!

      Nhân gian thiên thượng là ǵ? Nói tới sự phú quư trong nhân gian; người Trung Quốc nói tới Ngũ Phước, Phú là có của cải, Quư là địa vị cao cả, vào thời cổ là tước vị, đế, vương, công, hầu, những tước vị ấy sang quư. C̣n có ba điều nữa là “đa nam nữ”, tức là đông con lắm cháu, “đa tử đa tôn”. “Hiếu đức hiếu thiện” (ham đức, chuộng lành), chẳng thể thiếu một điều nào. Hễ thiếu một điều, dẫu trong quá khứ tu đại phú đại quư, sẽ hưởng hết rất nhanh, khi hưởng hết sẽ lụn bại, phú quư đă hưởng hết rồi! Nếu người ấy ham thiện, chuộng đức, quư vị thấy vừa hưởng phú quư vừa tu phú quư th́ phước báo mới chẳng hưởng hết, đời đời kiếp kiếp dằng dặc không dứt. Điều cuối cùng, lúc mất tốt lành, tức “thiện chung”. Người Hoa nói là “thiện chung”, [tức là] lúc mất, đầu óc tỉnh táo, sáng suốt, chẳng đau khổ. Người như vậy rời khỏi thế gian, đời sau chẳng vào nhân gian hưởng thụ phú quư, mà sẽ cao hơn đời này, sẽ sanh lên trời để hưởng phước trời. Đó là Ngũ Phước. Trong Ngũ Phước, quan trọng nhất là điều cuối cùng, v́ lẽ nào? Nó quyết định quả báo của quư vị trong đời sau. Nếu chết chẳng tốt lành, hiện thời chúng ta thường thấy người già lú lẫn, chuyện này rất phiền phức, chẳng phải là chuyện tốt đẹp. Người già bị lú lẫn, dẫu chúng ta niệm Phật trợ niệm cho họ, họ cũng chẳng được hưởng ǵ, chẳng đạt được lợi ích ấy, chắc chắn sẽ phải lưu chuyển theo nghiệp. Nếu người ấy suốt đời tích đức, hành thiện, chúng ta tin tưởng người ấy tuổi già chẳng thể nào mắc phải chứng bệnh ấy, v́ sao? Người ấy có phước báo, có các thiện hạnh và thiện đức bảo vệ. Chúng ta học Phật càng phải chú ư điều này, học Phật mà lúc mất bị lú lẫn th́ cũng là theo nghiệp chịu báo. Đừng nói là quư vị tu học, tu Thiền hay tu Mật, cho tới lúc ấy hoàn toàn chẳng dùng được, mà niệm Phật cũng chẳng có cách ǵ!

      Chúng ta liễu giải sự thật này, biết chân tướng này, chỉ biết nay chúng ta đang lúc khỏe mạnh, phải nên tu ǵ, cách tu như thế nào. Đây là những điều chúng tôi thường nói trong những năm qua, chớ nên sơ sót ba căn bản của Nho, Thích, Đạo, chớ nên không nghiêm túc học tập. Quư vị thật sự muốn tích lũy công đức, công đức và phước đức khác nhau, chớ nên coi phước đức là công đức. Quư vị làm chuyện tốt, giúp đỡ người khác, đó là phước đức. Quư vị thấy thuở ấy, Đạt Ma tổ sư đến Trung Quốc, Lương Vũ Đế tiếp kiến Ngài. Có thể nói Lương Vũ Đế là một vị hộ pháp lớn nhất trong Phật giáo sử Trung Quốc, thật sự tận tâm tận lực hộ tŕ Phật pháp. Ông ta dùng thân phận đế vương, lập cho Phật giáo bốn trăm tám mươi ṭa đạo tràng, tự viện, am, đường, hộ tŕ mấy chục vạn người xuất gia, chiếu cố họ, chính ḿnh rất đắc ư. Đạt Ma tổ sư đến Trung Quốc, hai người gặp mặt, Lương Vũ Đế khoe khoang chính ḿnh đă thay Phật môn làm những chuyện tốt đẹp như thế, hướng về Tổ thỉnh giáo, trên thực tế là khoe khoang: “Trong Phật môn, trẫm đă làm chuyện tốt đẹp nhiều ngần ấy, công đức có lớn hay không?” Đạt Ma tổ sư trả lời bằng một câu: “Trọn chẳng có công đức”. Lương Vũ Đế nghe câu ấy chẳng chịu nổi, rất bực ḿnh, đuổi Tổ đi, chẳng biếu tặng ǵ. Đạt Ma tổ sư nói chẳng sai, Ngài là người thật thà. Nếu tán thán nhà vua vài câu: “Rất lớn, rất lớn”, vua sẽ khoái chí, hộ tŕ Tổ, [do Tổ không làm như vậy] nên nhà vua hậm hực. Đây là [Tổ Đạt Ma] nói rơ Lương Vũ Đế làm chuyện ǵ? Phước đức, chẳng phải là công đức. Công đức là ǵ? Công đức là tu hành. Tŕ giới có công, có công phu sẽ đạt được ǵ? Đắc Định, đắc Định là đức; có công phu tu Định sẽ khai trí huệ, do Định khai huệ, khai trí huệ là đức. V́ thế, những thứ ấy là thật, chẳng giả, chẳng dính dáng ǵ đến chuyện quư vị tu bố thí, cúng dường. Bố thí, cúng dường là tu phước, nhất định phải biết điều này. Nếu khi ấy Lương Vũ Đế hỏi: “Trẫm có phước đức hay không”? Nhất định tổ Đạt Ma sẽ giơ ngón cái lên: “Rất ư là lớn, phước đức của bệ hạ rất lớn!”

      Phước đức và công đức khác nhau, quả báo của phước đức là trong ba thiện đạo, công đức chẳng phải vậy, công đức là vượt thoát lục đạo luân hồi, thành Phật, làm Tổ, đó là công đức. Công đức và phước đức nhất định phải phân biệt rơ ràng, phải hiểu rơ ràng. Chúng ta thường thấy trong chùa miếu ghi cái rương đựng tiền để người ta bỏ tiền vào là Công Đức Sương (rương công đức), lầm rồi, há phải là công đức? Người hiểu biết sẽ ghi là Phước Điền Sương (rương ruộng phước). Đó là đúng, quư vị đến gieo phước, [đó là] phước điền, chẳng có công đức. Dẫu quư vị bố thí chùa miếu nhiều đến mấy vẫn chẳng có công đức, mà là phước đức. Nhất định phải hiểu rơ điều này, đừng nên lầm lẫn. Chúng ta học Phật, phải phước huệ song tu, công đức và phước đức đều phải nên tu; quư vị chỉ tu công đức, không tu phước đức, sẽ thiếu phước! Trong kinh Phật có câu chuyện: “Tu huệ, bất tu phước, La Hán thác không bát” (Tu huệ, chẳng tu phước, La Hán đi khất thực, bát rỗng tuếch), A La Hán chứng đắc A La Hán quả, đó là công đức, nhưng thiếu phước báo, đi ra ngoài khất thực, chẳng được ai cúng dường, thiếu phước mà! Ngược lại, “tu phước, bất tu huệ, đại tượng quải anh lạc” (tu phước, chẳng tu huệ, voi to đeo chuỗi báu). Thời cổ, công cụ giao thông chưa có xe cộ. Tại Ấn Độ và Nam Dương đều dùng voi để thay thế, quốc vương ra ngoài ngồi trên lưng voi. Voi ấy là người tu hành trong quá khứ, tu phước, chẳng tu huệ, đời này đầu thai đọa trong súc sanh đạo, là vật cưỡi của quốc vương, khắp ḿnh đeo các chuỗi báu, đó gọi là “đại tượng quải anh lạc”. Trong kinh, đức Phật thường nêu lên tỷ dụ này, dụng ư rất sâu. Nếu chúng ta thấu hiểu, hăy phước huệ song tu.

      Đức Phật trọn chẳng cấm chúng ta tu phước, nhưng tu Huệ trọng yếu hơn tu phước, phải lấy tu Huệ làm chánh yếu, phải tu công đức. Trợ tu là phụ trợ th́ tu phước kèm theo, phước huệ song tu. Bất luận tại gia hay xuất gia đều phải hiểu đạo lư này, v́ sao? Đă gặp gỡ Phật pháp, Phật pháp thù thắng ở chỗ nó tạo cơ hội cho quư vị, ngay trong một đời này có thể viên thành Phật đạo, vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi, chuyện này rất hiếm có. Chẳng dễ thoát khỏi luân hồi! Đă sa vào hầm sâu này, chỉ có gặp gỡ Phật pháp th́ quư vị mới có cơ hội vượt thoát luân hồi. Nhất là gặp gỡ Tịnh Độ, gặp gỡ Tịnh Độ mà nếu thật sự chịu tu tập, không ai chẳng thành công, thật sự giải thoát! Văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới th́ có thể nói thân thể này của chúng ta là thân cuối cùng trong lục đạo luân hồi, đời sau chẳng c̣n luân hồi nữa, điều này trọng yếu lắm! Quư vị nghĩ xem c̣n có chuyện ǵ quan trọng hơn chuyện này? Đời này chẳng thể văng sanh, chắc chắn đời sau lại phải tiếp tục luân hồi. Chúng ta chẳng biết nỗi khổ luân hồi, nếu biết sẽ kinh sợ. Chắc chắn là luân hồi trong lục đạo th́ thời gian trong tam ác đạo lâu dài, thời gian trong ba thiện đạo ngắn ngủi, tạm bợ; quư vị chẳng thoát khỏi lục đạo luân hồi, chắc chắn thời gian trong ác đạo sẽ dài lâu. Điều này chẳng khó hiểu, quư vị nh́n vào hoàn cảnh sống, trong cuộc sống hằng ngày, từ sáng đến tối, quư vị khởi lên mấy ư niệm là Giới, Định, Huệ? Khởi mấy ư niệm là tham, sân, si? Quư vị so sánh một chút sẽ hiểu ngay. Nếu thời gian khởi tham, sân, si dài hơn thời gian Giới, Định, Huệ, sẽ đi vào tam ác đạo, tâm tham là ngạ quỷ đạo, sân khuể là địa ngục đạo, ngu si là súc sanh đạo. Do vậy, nếu lắng ḷng phản tỉnh một phen, [sẽ thấy] rất đáng sợ! Trong một ngày, từ sáng đến tối, xử sự, đăi người, tiếp vật, sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần, dấy lên niệm nào, nói câu nào, làm chuyện ǵ, quư vị hoàn toàn hiểu rơ, chẳng cần hỏi ai khác, c̣n chẳng biết đời sau bản thân ḿnh sẽ sanh vào đâu ư? V́ vậy, muốn văng sanh th́ phải nắm vững câu Phật hiệu, đọc kinh mỗi ngày, tối thiểu là niệm một bộ kinh Vô Lượng Thọ, niệm một bộ kinh, niệm Phật hiệu càng nhiều càng tốt. Chắc chắn thời gian niệm Phật hiệu phải dài hơn thời gian suy nghĩ lung tung, quư vị mới có thể nắm chắc. Nếu không chống lại được, văng sanh c̣n phải đánh dấu hỏi, chưa xác định. Tụng kinh, niệm Phật là công đức chân thật, tu thiện tích đức là chuyện tốt đẹp, phước huệ song tu, như vậy là đúng. Hôm nay thời gian đă hết rồi, chúng ta học tới đây.

 

Tập 96       

 

      Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang một trăm mười, ḍng thứ hai từ dưới đếm lên, xem từ câu thứ hai:

      “Hựu Danh Nghĩa Tập viết: “Bạt Đà Bà La” (Lại nữa, sách Danh Nghĩa Tập[10] nói: “Bạt Đà Bà La”), đây là tiếng Phạn, “phiên vi Hiền Hộ, tự hộ hiền đức, phục hộ chúng sanh cố. Hoặc vân Hiền Thủ, dĩ vị cư Đẳng Giác, vi chúng hiền chi thủ cố” (dịch là Hiền Hộ, tự ǵn giữ hiền đức, lại hộ tŕ chúng sanh. Hoặc dịch là Hiền Thủ, do Ngài ở địa vị Đẳng Giác, là Thượng Thủ của các bậc hiền nhân). Đoạn này giải thích ư nghĩa biểu pháp trong danh hiệu. Tiếng Phạn Bạt Đà Bà La (Bhadrapāla), dịch sang nghĩa tiếng Hán là Hiền Hộ. Hiền là ǵ? Hộ là ǵ? “Tự hộ hiền đức” (tự ǵn giữ hiền đức) là ư nghĩa của chữ Hiền, “phục hộ chúng sanh” (lại hộ tŕ chúng sanh) là ư nghĩa của chữ Hộ. Do vậy, Hiền là đối với chính ḿnh mà nói, Hộ là đối với đại chúng mà nói. Hiền đức vô lượng vô biên, cũng giống như người Hoa dạy trẻ nhỏ, quư vị thấy họ dạy trẻ con, lúc mới nhập học, nói chung là sáu bảy tuổi, học Tam Tự Kinh. Tam Tự Kinh là khái luận của văn hóa truyền thống Trung Quốc, quư vị thấy vừa nhập môn sẽ dạy tác phẩm này, vun đắp khái niệm này trước hết. Phương pháp dạy học như thế thật sự là trí huệ lỗi lạc, chẳng giống như người ngoại quốc. Người ngoại quốc dạy trẻ nhỏ, họ nói rất thực tế, cho là trẻ nhỏ chẳng hiểu lư luận lớn lao như “nhân chi sơ, tánh bổn thiện” (con người thoạt đầu, tánh vốn lành), làm sao chúng nó có thể hiểu được? Chúng nó có thể hiểu điều ǵ? Con cún sủa, con mèo bé nhảy nhót, chúng hiểu những điều này, bèn dạy cho chúng những điều ấy. Tuy [nh́n bề ngoài] trẻ chẳng hiểu, quư vị chẳng thể nói chúng nó không hiểu, chớ nên coi thường chúng. Trẻ nhỏ có trí huệ vô cùng cao. Các bác sĩ tâm lư học của Tây phương trong thời cận đại đă dùng thuật thôi miên để chứng thực điều này. Không chỉ là trẻ thơ sau khi được sanh ra, mà ngay cả trước khi sanh, ở trong thai mẹ, chúng cũng rất thông minh, hoàn toàn hiểu rơ tâm t́nh của mẹ, mẹ ăn uống ǵ, chúng nó đều có thể cảm nhận được. Làm sao quư vị có thể nói là chúng không biết? Những người ấy sau khi phát hiện [sự thật trên đây], mới thật sự nghĩ cổ nhân Trung Quốc nói “thai giáo” rất hữu lư!

      Hiền đức là như trong kinh Hoa Nghiêm đức Phật đă dạy: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của Như Lai”. Trí huệ là đức, trí huệ chính là đức được nói tới trong “hiền đức” ở đây. Ở chỗ này, đức năng và tướng hảo được gọi là Hiền, chúng vốn sẵn có trong tự tánh. Trong câu nói này, đức Phật hoàn toàn nói tới cương lănh của nó (tánh đức). Trong khi dạy học, đức Phật bảo chúng ta, Thập Thiện là hiền đức, chính ḿnh vốn sẵn có. Tam Quy, Ngũ Giới, Lục Ḥa, Lục Độ, mười nguyện Phổ Hiền đều là nói tới cương mục, cũng chẳng nhiều. Chúng tôi khẳng định tổ tông đều là Phật, Bồ Tát tái lai, lời họ nói hoàn toàn tương tự với kinh Phật. Nếu quan sát kỹ lưỡng, có đến bảy tám phần trong mười phần giống như những điều do các vị sáng lập các đại tôn giáo trên toàn thể thế giới đă nói trong kinh điển, chỉ sai khác một hai phần trong mười phần. Chỗ không giống nhau là ǵ? Tập quán sinh hoạt. Trên thế giới này, chúng sanh đông dường ấy, hoàn cảnh cư trụ khác nhau, bối cảnh văn hóa khác nhau, cho nên có những thói quen khác nhau, Phật, Bồ Tát hằng thuận chúng sanh, hoàn cảnh ấy, phong tục tập quán ấy sẽ có lợi cho họ. Tập quán của người thuộc hàn đới là sống trong cảnh trời băng đất tuyết, họ đến vùng nhiệt đới chẳng thể chịu được, không thể chịu đựng khí hậu nơi đó. Cũng giống như vậy, người vùng nhiệt đới đến vùng băng giá cũng sống chẳng quen. Hiện thời, giao thông thuận tiện, trước kia giao thông bất tiện, đúng là có những trường hợp cho đến khi chết già vẫn chẳng qua lại với nhau, hoạt động cả đời chỉ là mấy thôn trang thân cận, có bao giờ tới huyện thành hay không? Cả đời cũng chẳng đi đến. V́ thế, thánh nhân giáo hóa tùy thuận tánh đức.

      Thánh nhân Trung Quốc dạy chúng ta điều ǵ? Cũng rất đơn giản, mấy ngàn năm chẳng thay đổi, tổng cương lănh gồm mấy hạng mục là Ngũ Luân, Ngũ Thường, Tứ Duy, Bát Đức. Trung Quốc ngàn vạn năm truyền thừa những thứ ấy. Tứ Thư, Ngũ Kinh, mười ba kinh của Nho gia, thậm chí mở rộng đến Tứ Khố Toàn Thư, trong ấy nói những ǵ? Há chẳng phải là những điều ấy? Tuyệt đối chẳng rời khỏi bốn khoa mục ấy. Bốn khoa mục là Ngũ Luân, Ngũ Thường, Tứ Duy, Bát Đức. Chúng ta quy nạp chúng lại, nói thật sự là mười hai chữ, “hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ, nhân ái, ḥa b́nh”, mười hai chữ ấy và bốn khoa mục, khi quư vị đọc kỹ, bốn khoa mục ấy sẽ quy nạp thành mười hai chữ. Mấy ngàn năm giáo học của Trung Quốc, tổ tông các đời truyền thừa đều là những thứ ấy, chưa hề biến đổi. Chỉ sau khi nhà Măn Thanh vong quốc, Dân Quốc thành lập, những điều ấy mới bị coi nhẹ, bỏ sót. Thời Dân Quốc vẫn chẳng thay đổi những điều ấy, nhưng không coi trọng và nghiêm túc như trong thời đại đế vương xưa kia. Vua chúa xưa kia nghiêm túc coi trọng điều này, khiến cho xă hội an tường, ḥa hợp, hóa giải khá nhiều tai nạn. Hiện thời chúng ta đă hiểu rơ những nguyên lư ấy; đúng là kinh Phật đă dạy chẳng sai chút nào: “Tướng do tâm sanh, cảnh chuyển theo tâm”. Tâm thái của chúng ta tốt đẹp, niệm niệm chẳng rời khỏi mười hai chữ này. Khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác đều chẳng vi phạm “hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ, nhân ái, ḥa b́nh”, quư vị chẳng vi phạm chúng. Mười hai chữ này được nói trong kinh điển nhà Phật, so với các điển tịch của nhiều nhà tôn giáo trên thế giới, quư vị thấy hoàn toàn giống nhau.

      Cốt lơi của mười hai chữ là Ái, tức là Ái trong “nhân ái, ḥa b́nh”. Nhà Phật chẳng nói Ái, mà nói từ bi, từ bi chính là Ái. V́ sao đức Phật không nói Ái, mà phải nói từ bi? V́ người thế gian thấy chữ Ái này, trong Ái có t́nh, nên gọi là ái t́nh. Ái rất tốt, nhưng t́nh là bất hảo! Do vậy, đức Phật không nói Ái, mà nói từ bi. Từ bi là Ái, trong đó có lư trí, điều này tốt lắm! Trong Ái phải có lư tánh, phải có trí huệ, chớ nên dùng cảm t́nh. Ái bằng cảm t́nh chẳng phải là thật, mà là giả ái, là hư t́nh giả ư, nhất định phải biết điều này. V́ sao? Nó bị biến đổi. Từ bi là Chân Ái, vĩnh hằng chẳng thay đổi, chân thật! V́ lẽ đó, Phật giáo dùng từ bi, không dùng Ái; nhưng trong các sách vở của nhiều tôn giáo trên thế giới chúng ta thấy nói “thần yêu thương con người”, hoặc “Thượng Đế yêu thương con người”. Chúng ta biết ḷng yêu thương ấy chính là từ bi như trong nhà Phật đă nói, chẳng phải là xử sự bằng cảm t́nh, chúng ta nhất định phải hiểu điều này. Chúng ta thấy trong kinh Cổ Lan (Koran), mấy câu trọng yếu trong phần trước đều được nhắc đến, “Chân Chúa quả thật nhân từ”. Nhân từ tốt lắm, nhân từ và từ bi như trong nhà Phật đă nói hoàn toàn giống nhau. Phía sau nhân từ là trí huệ, là lư tánh, chẳng phải là cảm t́nh, đấy là cốt lơi của tánh đức, là trung tâm điểm của tánh đức. Tất cả hết thảy hiền đức đều phát xuất và được phát huy rạng rỡ từ nơi đây. Người có thể hộ tŕ hiền đức của chính ḿnh sẽ gọi là “biết yêu thương chính ḿnh”.

      V́ vậy, người nào thật sự yêu thương chính ḿnh? Nói theo Phật pháp, nói nghiêm ngặt th́ là Pháp Thân Bồ Tát thực hiện trăm phần trăm sự “yêu thương chính ḿnh”. Ở đây, nhóm Hiền Hộ gồm mười sáu vị tôn giả thật sự là Pháp Thân Bồ Tát. Không chỉ là Pháp Thân Bồ Tát, mà c̣n là Đẳng Giác Bồ Tát trong các vị Pháp Thân Bồ Tát, địa vị cao cả. Trong năm mươi mốt địa vị Bồ Tát của Phật giáo, các Ngài đă đạt tới địa vị cao nhất. Lên cao hơn nữa sẽ là Phật quả viên măn rốt ráo, được gọi là địa vị Diệu Giác. Đẳng Giác đạt đến tối cao, Pháp Thân Bồ Tát có bốn mươi mốt địa vị, địa vị [Đẳng Giác] này cao nhất. Chúng ta có thể nói theo kinh Hoa Nghiêm, Sơ Trụ Bồ Tát, trong kinh Hoa Nghiêm, Sơ Trụ Bồ Tát thực hiện được sự “yêu thương chính ḿnh”, thật sự yêu thương chính ḿnh. Biết thân là giả, chẳng thật, chẳng c̣n v́ thân thể này tạo nghiệp, ư niệm tự tư tự lợi chẳng c̣n, ư niệm tiếng tăm, lợi dưỡng chẳng có, chẳng c̣n đuổi theo tiếng tăm, lợi dưỡng, chúng là giả, chẳng c̣n tham cầu hưởng thụ ngũ dục, lục trần trong thế gian; tham, sân, si, mạn sẽ giảm bớt trên một mức độ lớn. Muốn đoạn chúng rất khó, thật sự đoạn được sẽ thành A La Hán; v́ thế, đoạn những phiền năo ấy rất khó khăn! Trong giai đoạn tu học của chúng ta, chúng đă được giảm nhẹ, chẳng nghiêm trọng như trong quá khứ, đó gọi là Hiền Hộ. Đấy là điều chúng ta hăy nên làm, có thể hộ tŕ tánh đức của chính ḿnh; ở đây [sách Danh Nghĩa Tập] nói là “tự hộ hiền đức”. Người ấy đúng như tiên sinh Phương Đông Mỹ đă nói: Đă đạt được sự hưởng thụ cao nhất trong đời người.

      Quư vị phải biết sự hưởng thụ cao nhất trong đời người chẳng liên quan ǵ đến của cải và địa vị. Điển h́nh và khuôn phép tốt nhất là Thích Ca Mâu Ni Phật. Chẳng phải là Ngài không có [của cải, địa vị], Ngài sanh ra trong gia đ́nh phú quư, phú quư từ lúc mới lọt ḷng. Nếu Ngài chẳng xuất gia, sẽ nối ngôi vua, người Hoa nói: “Quư vi thiên tử, phú hữu tứ hải” (thiên tử  sang quư, giàu có khắp bốn biển), Ngài có thân phận như thế. Đức Phật thông minh, giác ngộ từ nhỏ, hiểu rơ, mười chín tuổi bèn ĺa bỏ cuộc sống trong cung vua, rời khỏi gia đ́nh đi học đạo; nay chúng ta gọi là “du học”, thuở ấy gọi là “tham học”, tức là đi học hỏi những bậc cao nhân trong giới tôn giáo và giới học thuật. Cổ nhân Trung Quốc thường nói: “Nhân đồng thử tâm, tâm đồng thử lư” (người có cùng cái tâm này, tâm có cùng lư này). Chúng ta có thể hiểu, Ngài có thân phận là vương tử, lại vừa thông minh, hiếu học, tuổi trẻ như thế, mười mấy hai mươi tuổi. Ai không ưa thích hạng học tṛ như thế? Trong thời đại ấy, Ấn Độ đích xác là nước tôn giáo [phát triển nhất] trên toàn cầu, bất luận tôn giáo hay học thuật đều đạt tới cảnh giới rất cao. Họ sử dụng phương pháp, tuy chẳng giống như khoa học kỹ thuật hiện đại, họ sử dụng Thiền Định. Thiền Định có thể đột phá các chiều không gian, người b́nh phàm chúng ta gọi điều đó là “thần thông”. Những thứ chúng ta không thể thấy bằng mắt thịt, khi nhập Định, trong Định họ có thể trông thấy. Trong Định có thể thấy quá khứ, tương lai. Do vậy từ cổ đến nay đều có những dự ngôn (lời tiên đoán), thuở chúng tôi c̣n trẻ, đối với những thứ ấy cũng hiếu kỳ.

      Tôi thân cận lăo cư sĩ Lư Bỉnh Nam, thỉnh giáo lăo nhân gia: Có thể tin tưởng những dự ngôn hay không? Có nên dựa theo đó hay không? Lăo nhân gia bảo tôi: Dự ngôn chẳng rời khỏi Lư Số, đó là cơ sở của chúng. Tại Trung Quốc, dự ngôn chẳng rời khỏi kinh Dịch. Nếu tính toán rất chuẩn xác, quả thật có thể tin tưởng, nhưng loại tính toán này đúng là “sai chỉ hào ly, lầm lạc ngàn dặm”. V́ sao có dự ngôn rất chuẩn xác, có dự ngôn không chuẩn xác, những điều đă nói chẳng hề xảy ra? Đó là v́ trong ấy có đôi chút sai lầm sẽ chẳng chuẩn xác. V́ thế, nhà Phật nói họ dùng Tỷ Lượng, suy lường, nhưng thầy nói: Nếu là những điều thấy trong Định sẽ hết sức chuẩn xác. V́ thế, thầy bảo tôi: Thiền sư Hoàng Bá có mấy bài thơ dự ngôn chuẩn xác, nhưng những bài thơ ấy rất khó hiểu, giống như câu đố, rất khó suy luận thấu triệt. Đó là cảnh giới trong Định, là cảnh giới Hiện Lượng. Phàm là những loại dự ngôn giống như vậy đều rất đáng tin.

      Trong xă hội hiện thời, sợ chẳng thể thấy người nào có thể nhập Định, chẳng c̣n có người như vậy nữa. Trong thế kỷ trước, c̣n có người tu hành đắc Định như lăo ḥa thượng Hư Vân, trong thế kỷ này t́m không ra! Phiền năo tập khí trong tâm rất nặng, quư vị chẳng có cách nào nhập định. Ngoài xă hội th́ như người ngoại quốc nói “từ trường hết sức bất hảo”. Chẳng nói chi khác, sóng vô tuyến điện quấy nhiễu quư vị đắc Định. Quư vị thấy hiện thời sóng vô tuyến điện là bao nhiêu? Đừng nói chi khác, cell phone của mỗi cá nhân phát ra sóng điện đă ghê gớm lắm rồi. Chúng ta mắt thịt nh́n không thấy. Nếu chúng ta thấy th́ cả địa cầu bị những sóng điện từ bao phủ kín mít. Trong hoàn cảnh ấy, người ta chẳng có cách nào khiến tâm chẳng dao động, bộp chộp được? Tâm dao động, tính t́nh bộp chộp là ǵ? Do sóng điện từ quấy nhiễu, rất phức tạp. Trong quá khứ, khi chưa có những kỹ thuật ấy phát minh, không có hiện tượng này, hiện thời phiền phức ngày càng nghiêm trọng. Khoa học đổi mới khác lạ mỗi tháng, mỗi ngày, tạo ra những ảnh hưởng tiêu cực quá lớn. Đúng là “được không bù nổi mất”. Nhiễu loạn tâm t́nh, chướng ngại cuộc sống b́nh thường, tâm thái b́nh thường, tư duy b́nh thường của chúng ta. Ngày nay chúng ta tự bảo vệ chính ḿnh ra sao? Tận hết sức giảm bớt những thứ này. Trước kia không có điện thoại, chẳng phải là cũng sống được hay sao? Hiện thời chẳng lẽ không có thứ ấy liền chẳng thể sống hay sao? Đâu có đạo lư ấy! Họ cứ phát minh, ta có quyền cự tuyệt, chẳng dùng đến nó. Trong cuộc sống hằng ngày, chỉ có người khác gọi điện thoại cho tôi, trước nay, tôi chẳng gọi điện thoại cho ai. V́ sao? Tôi chẳng muốn tạo tội nghiệp ấy: Dùng loại sóng điện này nhiễu loạn người khác, phải hiểu điều này. Người khác gọi tôi, tôi không có cách nào, chẳng thể không tiếp nhận. Nay th́ khá hơn, có người khác nhận giùm tôi, tôi chẳng cần phải nghe nữa. V́ thế, nói chung phải nghĩ tới phương pháp bảo vệ chính ḿnh. Tổ tiên đă ban cho người Trung Quốc ân huệ quá lớn. Ân huệ lớn nhất là phát minh ra văn tự. Văn tự là một phương tiện chuyển tải truyền thông. Văn tự Trung Quốc là phù hiệu trí huệ, quư vị không biết đọc cũng không sao. Trông thấy h́nh dạng của chữ, sẽ hiểu được ư nghĩa của nó. Đó là trí huệ. Trong văn tự ngoại quốc không có hiệu quả như thế. Phù hiệu trí huệ th́ quư vị nh́n lâu sẽ khai ngộ. Chẳng thể sửa đổi văn tự ấy, chúng ta thiếu trí huệ như tổ tông th́ làm sao có thể sửa đổi văn tự ấy?      

      Do vậy, phải luôn nghĩ “bổn tánh bổn thiện” (bản tánh vốn lành), bổn thiện là hiếu, đễ, trung, tín, chúng ta khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác, trước hết có nghĩ sẽ xứng với tổ tông hay không? Có xứng với cha mẹ hay không? Tâm hạnh ta chẳng lành, cha mẹ chẳng hoan hỷ, tổ tông chẳng thể tiếp nhận, vậy th́ không thể làm như thế được! Chúng ta hành hiếu, hành đễ, “đễ” là tôn kính bề trên, tôn kính những người cùng hàng. Phải tôn kính những người cùng vai vế hoặc bậc trưởng bối, đó là đễ đạo, thực hiện từ “anh em yêu thương, ḥa thuận”, cho đến yêu thương, nhường nhịn hết thảy những người có cùng độ tuổi, vai vế với ta. Trung với nước nhà, trung với dân tộc, trung với xă hội, trung với lănh đạo. Trung là ǵ? Chịu trách nhiệm. Con người nói năng phải giữ chữ tín, làm người nhất định phải giữ sự tín nhiệm, không nói dối, không nói đôi chiều, chẳng nói thêu dệt, chẳng ác khẩu, đều thuộc về chữ Tín này. Lễ, nghĩa, liêm, sỉ, xử sự, đăi người, tiếp vật, chớ nên coi thường, thiếu sót lễ. Nghĩa là hợp t́nh, hợp lư, hợp pháp; liêm là liêm khiết, biết tiết kiệm là mỹ đức, quyết định chẳng lăng phí. Phải thường nghĩ thế gian này c̣n có rất nhiều kẻ khổ nạn, kẻ chẳng có cái ăn, cái mặc, chẳng có nhà cửa để ở rất nhiều. Dẫu họ không ở trước mặt, nhưng thường nghĩ tới họ, hễ có duyên phận bèn tận tâm tận lực giúp đỡ họ, thường nghĩ đến người khác, phải mở rộng tâm lượng.

      Xưa kia, tôi ở Tân Gia Ba, tôi và chín tôn giáo tại Tân Gia Ba đối xử với nhau hết sức ḥa thuận. Bất luận tôn giáo nào cần giúp đỡ, chúng tôi cũng tự động ra tay giúp đỡ. Có một lần, có một nữ tu cho tôi biết: Người bên Phi Châu rất đáng thương, Thiên Chúa Giáo cử sang đó một đoàn chữa bệnh, h́nh như có ba bác sĩ, mấy người y tá sang đó giúp đỡ họ, bà ta kể với tôi tin ấy. Khi đó, tôi tặng năm vạn Mỹ Kim để họ thay tôi dùng làm phí tổn y tế, bố thí thuốc men. Một tuần sau, bà ta lại gọi điện thoại cho tôi, cho biết bên đó giao thông vô cùng lạc hậu, rất khó khăn, có thể tặng một cái xe cứu thương hay không? Tôi nói được, tôi sẽ tặng cho bà một xe cứu thương. Các tín đồ Phật môn biết chuyện ấy đến chất vấn tôi, họ nói: “Thưa pháp sư! Tiền của tín đồ chúng tôi kiếm chẳng dễ, cớ sao thầy lại lấy đem cho ngoại đạo?” Tôi hỏi: “Cái ǵ mà ngoại đạo?” [Họ đáp]: “Thầy cho tiền Thiên Chúa Giáo, chẳng phải là ngoại đạo ư?” Tôi hỏi ngược lại họ: “Chúng ta có muốn lập viện dưỡng lăo hay không?” Muốn! “Có muốn lập cô nhi viện hay không?” Muốn! “Chúng ta có nên mở bệnh viện hay không?” Muốn! Người ta có bệnh khổ có cần phải cứu kẻ ấy hay không?” Phải! “Người ta đă phái một đội y tế đi cứu giúp, chúng ta đầu tư một chút, tặng một ít tiền cho họ, chúng ta đă có quyền cổ đông (shareholder) trong ấy, có sai lầm ǵ chăng?” Họ mới thôi bắt bẻ, bỏ đi. Do vậy, bất luận kẻ nào làm một chuyện tốt, lợi ích xă hội, chính là chúng ta làm. Bản thân chúng ta không có sức, bèn sanh tâm hoan hỷ, khen ngợi kẻ ấy, hễ có sức th́ tận tâm tận sức giúp đỡ họ, chuyện tốt mà! Cần ǵ cứ nhất định phải chính ḿnh làm mới là chuyện tốt, người khác làm th́ không phải, [có cách nghĩ như vậy tức là] tâm lượng quá nhỏ, đă trái phạm Tánh Đức. Bất luận kẻ nào làm chuyện tốt, đúng là chuyện tốt, ích lợi xă hội, có lợi cho chúng sanh khổ nạn, chúng ta phải nên giúp đỡ, chẳng bàn ra tán vào. Không có sức bèn hoan hỷ, tán thán, tuyên dương người ta. “Tự hộ hiền đức” [là như vậy đó].

      Bốn chữ cuối trong mười hai chữ ấy là “nhân ái, ḥa b́nh”, đó là đạt tới chỗ cùng cực. Mười hai chữ ấy giống như một ṭa cao ốc có mười hai tầng, quư vị phải biết cội rễ ở chỗ nào? Cội rễ là hiếu, hiếu là tầng thứ nhất, đễ là tầng thứ hai, ḥa b́nh là cao nhất. Nó có cội rễ, có cơ sở. Quư vị đọc kinh Vô Lượng Thọ và kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật của Tịnh Tông, câu đầu tiên trong Tịnh Nghiệp Tam Phước là “hiếu dưỡng phụ mẫu”, câu thứ hai là “phụng sự sư trưởng”, hiếu thảo cha mẹ, tôn trọng thầy là căn cơ học Phật. Không có hai câu này, dẫu học Phật tốt đẹp cách mấy, [vẫn là] thiếu cội rễ, làm sao có thành tựu cho được? Người Trung Quốc lập quốc đă năm ngàn năm trên mặt đất, cội rễ sâu chắc, đó là ǵ? Hiếu đễ. Mười hai chữ ấy đă được cày cấy trên đất báu Trung Quốc năm ngàn năm, tuy hiện thời bị coi nhẹ, bỏ sót, căn bản có bị lay động hay không? Không có. Thí nghiệm của chúng tôi tại Thang Tŕ đă chứng thực. Chúng tôi vốn cho rằng phải mất từ hai đến ba năm thí nghiệm mới có thể thấy hiệu quả; không ngờ từ ba đến bốn tháng đă có hiệu quả rơ rệt, cho thấy căn bản vẫn c̣n. Đúng là thâm căn cố đế, con người hết sức dễ dạy. Một dải Mă Lai và Nam Dương tiếp xúc Trung Quốc, được văn hóa truyền thống của Trung Quốc hun đúc, tôi nghĩ ít nhất là một ngàn năm. V́ thế, nơi ấy cũng là phước địa, cũng là đất báu. Đề ra mười hai hạng mục đức hạnh ấy, mọi người hoan nghênh, đấy là Tánh Đức.

      Do vậy Hiền Hộ, phải hộ tŕ đức của chính ḿnh là điều trọng yếu, những điều khác chẳng trọng yếu. Có thể hộ tŕ chính ḿnh, sẽ có thể hộ tŕ người khác, đó là “phục hộ chúng sanh” (lại hộ tŕ chúng sanh). Thế nào là “hộ chúng sanh”? Giáo hóa chúng sanh. Giáo hóa nhất định phải bằng thân hành, ngôn giáo, chính ḿnh không làm được, mà bảo người khác làm, người ta sẽ không tin. Ắt phải chính ḿnh làm được, quư vị mới có thể cảm hóa người khác, đó là “tự hành, hóa tha”, là ư nghĩa của hai chữ Hiền Hộ. Danh hiệu này bao quát hết thảy những đồng tu tại gia học Phật. Đây là tên của một người, đại diện cho hết thảy các vị tại gia học Phật, có ư nghĩa rất sâu. Ngài là đại diện chung, mười lăm vị kia đại diện [cho những đức] riêng biệt, c̣n vị này là tổng đại biểu. Tại gia c̣n phải khéo hộ tŕ tánh đức của chính ḿnh, huống hồ xuất gia th́ càng chẳng cần phải nói nữa. Chúng ta thấy chư Phật Như Lai, chư đại Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, có ai chẳng học tập như vậy? Ai nấy đều có thể thành tựu chính ḿnh, lợi ích chúng sanh.

      Tiếp đó, sách viết: “Hoặc vân Hiền Thủ” (Hoặc c̣n gọi là Hiền Thủ). Ư nghĩa này xuất phát từ tiếng Phạn, Bạt Đà Bà La c̣n có nghĩa là Hiền Thủ. Hiền Thủ là “chúng hiền chi thủ” (đứng đầu trong các bậc hiền nhân), là gương mẫu, khuôn phép trong các vị Bồ Tát, có địa vị cao nhất trong đại chúng, nên gọi là Hiền Thủ. “Dĩ vị cư Đẳng Giác” (do Ngài thuộc địa vị Đẳng Giác), ở đây nói rơ ràng, minh bạch, thân phận ǵ vậy? Đẳng Giác Bồ Tát. Có cùng địa vị với Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Văn Thù, Phổ Hiền, Di Lặc Bồ Tát, các Ngài đều là Đẳng Giác Bồ Tát. Trong bốn mươi mốt đẳng cấp, Ngài thuộc đẳng cấp thứ bốn mươi mốt cao nhất. V́ thế, so với bốn mươi địa vị Pháp Thân Bồ Tát trước đó, địa vị của các Ngài cao nhất, Đẳng Giác cao nhất, nên là thủ tọa của họ, mang ư nghĩa này. “Khả kiến Hiền Hộ Chánh Sĩ, năi thị sanh ư Vương Xá thành, vị đăng Đẳng Giác chi tại gia Bồ Tát” (Có thể thấy Hiền Hộ Chánh Sĩ thị hiện sanh trong thành Vương Xá, là vị tại gia Bồ Tát thuộc địa vị Đẳng Giác). Thật sự có vị này, thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, hàng tại gia học Phật cũng chứng đắc địa vị Đẳng Giác. Đầu thời Dân Quốc, người sáng lập Chi Na Nội Học Viện là Âu Dương Cánh Vô đại sư, người đời sau tông xưng ông ta là “đại sư”, chứ ông ta là tại gia cư sĩ. Tuy thời gian hoạt động của Chi Na Nội Học Viện không dài, chỉ có hai năm, nhưng hai năm ấy thật sự có công đức, kéo dài huệ mạng của Phật pháp. Đầu thời Dân Quốc, những đại cư sĩ tại gia, như cư sĩ Giang Vị Nông và hàng xuất gia, ngay cả pháp sư Thái Hư, pháp sư Thái Hư là học sinh dự thính trong Nội Học Viện, cư sĩ Vương Ân Tường[11], những vị đại đức trứ danh ấy đều xuất thân từ Phật Học Viện. Ông ta (Âu Dương Cánh Vô) nói rất rơ ràng, Phật pháp là sư đạo, sư đạo là giáo dục. Ông ta có lần giảng diễn, phát biểu vào năm Dân Quốc thứ mười hai (1923) tại Đệ Tứ Trung Sơn Đại Học, lần giảng diễn ấy đă chấn động toàn quốc vào thời đó. Đề tài giảng diễn là “Phật pháp không phải là tôn giáo hay triết học, mà là nhu cầu tất yếu cho hiện thời”, đề tài giảng diễn như vậy. Đệ Tứ Trung Sơn Đại Học nay là đại học sư phạm Nam Kinh, ở ngay thành phố Nam Kinh. Đă là sư đạo th́ trong giáo học thầy lớn nhất, tôn sư, trọng đạo, hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng. Học tṛ chẳng có tâm tôn kính thầy, sẽ chẳng học được ǵ. Đúng như Ấn Quang đại sư đă nói: “Một phần thành kính được một phần lợi ích, mười phần thành kính được mười phần lợi ích”. Thầy dạy quư vị, quư vị có thể đạt được bao nhiêu chẳng do thầy, mà do tâm cung kính của chính ḿnh. Quư vị có thể đạt được bao nhiêu sẽ tỷ lệ thuận với tâm cung kính của chính ḿnh, đạo lư như thế đó!

      Đặc biệt nói rơ, quư vị học Phật, thầy là lớn nhất. Tôi là người xuất gia, thầy tôi là tại gia, hăy nhớ, thầy là người lớn nhất, thấy thầy phải đảnh lễ ba lạy giống như thấy Phật. Thầy là cư sĩ, xác thực như thế. Trong thời đại này, chừng hơn tám mươi năm trước, ông ta đă nói ra câu ấy. Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế đă biểu diễn cho chúng ta thấy. Chúng ta chỉ biết Thích Ca Mâu Ni Phật, c̣n có một vị Phật tại gia, nhưng mọi người quên khuấy. Thân phận [của vị thầy] tại gia ấy và địa vị của Thích Ca Mâu Ni Phật giống nhau, tại gia Phật là cư sĩ Duy Ma Cật, cùng thời đại với Thích Ca Mâu Ni Phật. Hai vị Phật đồng thời, một tại gia, một xuất gia. Quư vị thấy học tṛ của Thích Ca Mâu Ni Phật, chúng ta xem kinh thấy gần như mỗi bộ kinh đều có hai vị là Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, Xá Lợi Phất tượng trưng trí huệ đệ nhất, Mục Kiền Liên tượng trưng thần thông đệ nhất. Cư sĩ Duy Ma giảng kinh, Thích Ca Mâu Ni Phật sai hai người học tṛ ấy đi nghe kinh. Họ trông thấy cư sĩ Duy Ma, vừa đảnh lễ ba lạy, vừa đi nhiễu ba ṿng theo chiều phải, lễ tiết hoàn toàn giống như gặp A Di Đà Phật. Đức Phật từ bi, vào lúc ấy diễn xuất cho chúng ta thấy, dạy người đời sau chúng ta biết tôn sư trọng đạo, đặc biệt dạy người xuất gia: Tại gia có người tu hành khai ngộ, minh tâm kiến tánh, đắc đạo, chứng quả! Họ đạt tới địa vị ấy, chính là Phật, chính là thầy. Chúng ta đối với người ấy cung kính giống như đối với Phật, chớ nên hạ thấp, khinh dễ người ấy; nếu làm như vậy th́ đă hoàn toàn sai mất rồi!

      Trong lần diễn giảng ấy, Âu Dương đại sư đă nói rất rơ ràng, minh bạch. Tuy vậy, chúng tôi là hàng hậu sanh, lần diễn giảng phát biểu ấy, tôi c̣n chưa ra đời. Tôi sanh năm Dân Quốc 16 (1927), ông ta giảng diễn vào năm Dân Quốc 12 (1923). Chúng tôi đọc bài diễn thuyết, hiểu dụng ư của ông ta: Người xuất gia phải học khiêm hư. Tại gia cư sĩ có đức năng, tu hành tốt đẹp hơn ta th́ ta phải nên trống ḷng học tập người ấy, coi người ấy là thầy th́ mới có thể thành tựu chính ḿnh. Do vậy, trong bộ kinh này, càng hiển thị thâm ư ấy. Quư vị thấy đối với hàng xuất gia Bồ Tát chỉ nêu ra ba vị, tại gia Bồ Tát nêu lên mười sáu vị. Mười sáu vị này hoàn toàn b́nh đẳng với ba vị trước, đều là Đẳng Giác Bồ Tát. Bởi lẽ, thuở Phật tại thế, quả thật có Hiền Hộ Chánh Sĩ sanh tại thành Vương Xá, là tại gia Bồ Tát đă chứng địa vị Đẳng Giác, trên thực tế đều là tại gia Phật. Ngài Duy Ma đại diện cho tại gia Phật, thuộc địa vị Diệu Giác. V́ thế, tại gia có thể tu hành thành Bồ Tát, thành Phật. Đó chính là như Quán Thế Âm Phổ Môn Phẩm đă nói: “Nên dùng thân ǵ để độ được bèn hiện thân ấy”. Đặc biệt là trong thời đại hiện tại, hiện thân làm người tại gia giáo hóa chúng sanh dễ dàng, so với người xuất gia dễ dàng hơn nhiều. Tại gia có thể kinh doanh các thứ sự nghiệp khác nhau, có thể khởi tác dụng xướng suất trong các nghề nghiệp khác nhau, đó chính là ư nghĩa của Hiền Thủ.

      Chúng ta lại xem lời khai thị của cụ Hoàng Niệm Tổ kế đó: “Nhược án kim kinh biệt ư” (Nếu xét theo ư riêng trong kinh này), kinh này là kinh Vô Lượng Thọ, chuyên giảng pháp môn Tịnh Tông, dạy chúng ta niệm Phật đới nghiệp văng sanh. Dựa theo bộ kinh này để thấy ư nghĩa của giảng ṭa lần này. “Cứ Ban Châu Tam Muội Kinh” (theo kinh Ban Châu Tam Muội), trong kinh Ban Châu Tam Muội có một đoạn như thế này: “Thử Bạt Đà Ḥa” (ông Bạt Đà Ḥa này), có cùng ư nghĩa với âm tiếng Phạn Bạt Đà Bà La trong phần trước, chỉ là phiên dịch khác nhau, âm đọc cũng không sai biệt cho lắm. Bạt Đà Bà La và Bạt Đà Ḥa chẳng khác nhau lắm, đều có nghĩa là Hiền Hộ. Bạt Đà Ḥa Bồ Tát, “thị Niệm Phật tam-muội phát khởi nhân” (là người phát khởi Niệm Phật tam-muội), quư vị thấy Ngài tu ǵ? Ngài chuyên tu Tịnh Độ, là người khởi đầu Niệm Phật tam-muội, thuở đức Phật tại thế, “thân kiến Di Đà” (đích thân thấy Phật Di Đà), Ngài đă thấy A Di Đà Phật. Kinh chẳng nói rơ sự đích thân trông thấy ấy là thấy trong Định, hay thấy trong mộng, có lúc quả thật đang trong lúc hoàn toàn tỉnh táo mà thấy, đích thân thấy Phật Di Đà. “Kim cố lai thử thắng hội, trợ hiển Niệm Phật tam-muội vô thượng pháp môn” (nay đến hội thù thắng này để giúp hiển thị pháp môn Niệm Phật tam-muội vô thượng). Ngài hiện diện trong hội này, lại c̣n được kể tên đầu tiên, chúng ta biết hội này giảng điều ǵ? Giảng niệm Phật bậc nhất. Ngài là người phát khởi Niệm Phật tam-muội, biểu thị niệm Phật bậc nhất. Ngài được kể tên đầu tiên trong đại hội, pháp hội lần này nhằm giảng niệm Phật là bậc nhất, biểu thị ư nghĩa này.

      Vị Bồ Tát thứ hai, tức vị tại gia Bồ Tát thứ hai, “Thiện Tư Duy Bồ Tát, Đường dịch vi Thiện Tư Duy Nghĩa Bồ Tát” (Thiện Tư Duy Bồ Tát, bản dịch đời Đường ghi là Thiện Tư Duy Nghĩa Bồ Tát), bản dịch đời Đường nằm trong kinh Đại Bảo Tích. Trong Vô Lượng Thọ Như Lai Hội của kinh Đại Bảo Tích, danh xưng của Ngài được phiên dịch là Thiện Tư Duy Nghĩa Bồ Tát. “Ngụy dịch”, bản dịch đời Ngụy là bản được lưu hành phổ biến nhất tại Nhật Bản. Các đại đức Nhật Bản vào thời cổ đọc kinh Vô Lượng Thọ quá nửa dùng bản này, tức bản dịch của ngài Khang Tăng Khải. “Ngụy” ở đây là nhà Tào Ngụy trong thời đại Tam Quốc. “Án Tứ Đồng Tử Kinh Hiện Sanh Phẩm” (xét theo phẩm Hiện Sanh trong Tứ Đồng Tử Kinh[12]), trong kinh ấy có giới thiệu, “Thiện Tư Duy đẳng Chánh Sĩ, thị tha phương thế giới lai thử thị hiện chi tại gia Bồ Tát” (các vị Chánh Sĩ như Thiện Tư Duy v.v... từ thế giới phương khác đến cơi này thị hiện làm hàng tại gia Bồ Tát), vị Bồ Tát này không thuộc thế giới Sa Bà, mà là khách, từ thế giới phương khác đến, cũng đến tham gia pháp hội lần này, hiển thị sự thù thắng của pháp hội lần này, cảm động các Bồ Tát ở những thế giới phương khác đến tham dự.

      “Kinh vân: Đông phương khứ thử Phật sát thập thiên câu-chi, hữu nhất thế giới danh Bảo Minh” (kinh dạy: “Từ phương Đông của cơi Phật này đi qua mười ngàn câu chi cơi Phật, có một thế giới tên là Bảo Minh”). Thế giới này của chúng ta gọi là Sa Bà, mỗi thế giới có một vị Phật giáo hóa trong ấy. Mỗi thế giới là khu vực giáo hóa của một vị Phật. “Phật danh Sư Tử Minh Thanh Như Lai. Hữu nhất Bồ Tát danh Thiện Tư Nghị” (Phật hiệu là Sư Tử Minh Thanh Như Lai, có một Bồ Tát tên là Thiện Tư Nghị), đấy chính là ngài Thiện Tư Duy đang được nói đến ở đây. “Ứng thác lai đáo thử độ, hóa sanh A Xà Thế vương cung nội” (thác sanh đến cơi này, hóa sanh trong cung vua A Xà Thế), Ngài đến thế giới này để đầu thai, sanh trong cung vua A Xà Thế. Đây gọi là Ứng Thân, chẳng phải là Hóa Thân, ứng hóa trong thế gian này, là Bồ Tát từ phương khác đến. Danh hiệu Thiện Tư Nghị và Thiện Tư Duy có ư nghĩa giống nhau, nói rơ ư niệm và tâm thái của Bồ Tát thuần tịnh, thuần thiện. Thiện ở đây chẳng phải là thiện trong “thiện - ác”, mà có ư nghĩa giống như câu “nhân tánh bổn thiện” trong Tam Tự Kinh, thiện là như vậy đó. Thiện trong “thiện - ác” có tŕnh độ rất thấp, trong lục đạo có thiện - ác; ra khỏi lục đạo, thiện - ác chẳng c̣n, thiện - ác không có th́ mới gọi là Tịnh Độ. V́ vậy, họ (những người đă thoát khỏi lục đạo) có nhiễm và tịnh, chẳng có thiện và ác. So với lục đạo để nói, [cảnh giới] họ [an trụ] là Tịnh Độ, lục đạo là nhiễm ô. Thiện ở đây c̣n cao hơn [so với Thiện trong] Tịnh Độ, trong Phật pháp gọi cảnh giới ấy là cơi Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật Như Lai, đấy mới là chân thiện. Do các Ngài (các vị Bồ Tát thuộc nhóm Hiền Hộ Bồ Tát) là Đẳng Giác Bồ Tát, nhất định thuộc vào tầng bậc cao nhất, nên chúng ta không thể dùng định nghĩa [về Thiện] trong lục đạo phàm phu để giải thích, [nếu hiểu theo ư nghĩa so sánh với lục đạo phàm phu] sẽ là sai lầm!

      Tiếp đó nói: “Nam phương khứ thử ngũ bách ức thế giới, hữu nhất thế giới, Phật danh Bảo Tích Thiện Hiện Như Lai, hữu nhất Bồ Tát danh Tịch Tĩnh Chuyển” (Nơi phương Nam cách đây năm trăm ức thế giới có một thế giới, Phật hiệu Bảo Tích Thiện Hiện Như Lai, có một vị Bồ Tát tên là Tịch Tĩnh Chuyển), đây chính là ngài Huệ Biện Tài được nhắc đến trong kinh này, Huệ Biện Tài được gọi là Tịch Tĩnh Chuyển [trong kinh Tứ Đồng Tử]. “Ư thử Xá Vệ thành nội, sanh đại cư sĩ Tự Sư Tử gia. Tây Phương khứ thử quá bát ức bách thiên Phật sát, Lạc Âm Như Lai sở, hữu nhất Bồ Tát danh Vô Phan Duyên” (trong thành Xá Vệ này, sanh trong nhà cư sĩ Tự Sư Tử. Ở phương Tây, cách khỏi đây tám ức trăm ngàn cơi Phật, ở chỗ đức Lạc Âm Như Lai có một vị Bồ Tát tên Vô Phan Duyên), [Vô Phan Duyên] chính là ngài Quán Vô Trụ đang được nói đến ở đây. “Ư thử Ba La Nại quốc, hóa sanh đại cư sĩ Thiện Quỷ gia. Bắc phương khứ thử lục vạn tứ bách thiên ức Phật độ, trụ Bồ Đề Phần Chuyển Như Lai sở, hữu nhất Bồ Tát danh Khai Phu Thần Đức” (hóa sanh vào nhà đại cư sĩ Thiện Quỷ trong nước Ba La Nại này. Về phương Bắc, cách đây sáu vạn bốn trăm ngàn ức cơi Phật, ở chỗ đức Trụ Bồ Đề Phần Chuyển Như Lai có một vị Bồ Tát tên là Khai Phu Thần Đức), [Khai Phu Thần Đức] chính là ngài Thần Thông Hoa đang được nói đến ở đây. “Sanh thử Tỳ Da Ly thành đại tướng Sư Tử gia. Thử tứ đồng tử dữ vô lượng đại chúng, cộng lai Sa La Song Thụ sở, cung kính cúng dường” (sanh trong nhà đại tướng Sư Tử của thành Tỳ Gia Ly này. Bốn đồng tử này cùng với vô lượng đại chúng đến rừng Sa La Song Thọ cung kính cúng dường). Đây là ghi chép về các vị Bồ Tát ở phương khác, các Ngài là Đẳng Giác Bồ Tát nơi phương khác, có duyên rất sâu với Thích Ca Mâu Ni Phật, hiển thị điều thường được nói trong kinh: “Một vị Phật xuất thế, ngàn vị Phật ủng hộ”. Mọi người thấy Thích Ca Mâu Ni Phật đến quả địa cầu này thị hiện thành Phật độ chúng sanh, chư Phật Như Lai, Đẳng Giác Bồ Tát có duyên phận sâu đậm với Thích Ca Mâu Ni Phật thảy đều theo đến. Thích Ca Mâu Ni Phật giáng sanh tại nước Ca Tỳ La Vệ, trong vương cung của đại vương Tịnh Phạn, những vị ấy mỗi vị t́m một chỗ, đều cùng giáng sanh, dùng đủ thứ thân phận bất đồng, có vị là thân phận Bồ Tát, có vị là thân phận Thanh Văn, có vị là thân phận Duyên Giác, có vị mang thân phận xuất gia, có vị mang thân phận tại gia, cũng có vị mang thân phận quốc vương, đại thần, đủ mọi thân phận khác biệt đến hộ tŕ Thích Ca Mâu Ni Phật. Mọi người đến diễn một vở tuồng, Thích Ca Mâu Ni Phật đóng vai chánh, các vị kia đều đóng vai phụ, khiến cho vở tuồng được diễn viên măn, biểu diễn sống động, hoạt bát, v́ sao? Để giáo hóa chúng sanh. Ở đây, chúng ta thấy điều ǵ? Ḥa hài, chẳng ghen ghét, chẳng tranh danh đoạt lợi. Ai làm người cầm đầu, lănh đạo cũng được, cũng hoan hỷ, chúng ta phải học điều này. Mục tiêu và phương hướng chung chỉ có một, mong mỏi giúp cho những chúng sanh mê hoặc, c̣n chưa giác ngộ phá mê khai ngộ, ĺa khổ được vui, nhắm tới mục tiêu này. Mục tiêu và phương hướng giống nhau, nên mọi người đều cùng đến. Mấy vị này thường được đức Phật nhắc tới trong kinh điển, lại c̣n là những vị cư sĩ tu hành chứng quả, cũng rất nổi tiếng tại Ấn Độ thuở ấy, hễ nhắc tới mọi người đều biết.

      Lại xem tiếp: “Hựu thử hạ Quang Anh Bồ Tát đẳng tứ Chánh Sĩ, như Pht Danh Kinh đệ thất thuyết, Quang Anh, Huệ Thượng” (Thêm nữa, bốn vị Chánh Sĩ như Quang Anh Bồ Tát v.v... tiếp theo đó như quyển bảy kinh Phật Danh[13] có nói: Quang Anh, Huệ Thượng), Huệ Thượng ở đây là Trí Thượng. “Tịch Căn, Nguyện Huệ tứ Bồ Tát, tùng tứ phương Phật độ lai tập thử giới chi tướng” (Tịch Căn, Nguyện Huệ, bốn vị Bồ Tát, từ cơi Phật ở bốn phương nhóm đến cơi này), hóa thân đến! Trong phần trước, ta thấy Ứng Thân, đến thế gian này đầu thai, gọi là Ứng Thân, hoặc là Hóa Thân. “Hựu Văn Thù Sư Lợi Nghiêm Tịnh Kinh diệc thuyết, thử tứ Chánh Sĩ tùng tứ phương lai, đồng thượng sở thuyết” (Hơn nữa, kinh Văn Thù Sư Lợi Nghiêm Tịnh cũng nói bốn vị Chánh Sĩ này từ bốn phương đến, giống như trong kinh Tứ Đồng Tử đă nói). Cũng có thể nói là trong kinh, đức Phật cũng đă nhiều lần giới thiệu các vị này. “Hựu Nguyệt Đăng Tam Muội Kinh đệ tam thuyết: - Hương Tượng Bồ Tát tùng Đông phương A Súc Phật, dữ na-do-đa Bồ Tát, cộng lai vấn tấn Thích Ca Mâu Ni Phật” (Kinh Nguyệt Đăng Tam Muội, quyển thứ ba lại nói: “Hương Tượng Bồ Tát từ cơi của A Súc Phật ở phương Đông cùng với na-do-đa (na-do-tha) Bồ Tát cùng đến chào hỏi Thích Ca Mâu Ni Phật”). Trong mười sáu vị trên đây, ngài Hương Tượng xếp thứ mười hai. Ngài từ cơi của Đông phương A Súc Phật, là đệ tử của A Súc Phật, dẫn theo rất nhiều người. Chúng ta thường dịch Na-do-đa (Nayuta) là Vô Số, số lượng nhiều lắm. Ngài dẫn theo Bồ Tát nhiều dường ấy, cùng nhau thưa hỏi Thích Ca Mâu Ni Phật, sau khi chào Thích Ca Mâu Ni Phật, bèn thỉnh an Thích Ca Mâu Ni Phật. “Dĩ thượng Hiền Hộ đẳng nhất trực đáo Hương Tượng” (Trên đây, từ Hiền Hộ cho đến Hương Tượng Bồ Tát), tổng cộng là mười vị. “Kỳ dư lục nhân như Chân Giải vân” (c̣n sáu vị kia th́ như sách Chân Giải nói), Chân Giải là chú giải kinh Vô Lượng Thọ của pháp sư Đạo Ẩn người Nhật, bản chú giải ấy có tên là Chân Giải. Trong Tịnh Tông Nhật Bản, Sư hết sức nổi tiếng, bản chú giải của Sư cũng được truyền đến Trung Quốc. Do vậy, tổ sư đại đức của Tịnh Tông Trung Quốc cũng tham khảo bản chú giải của Sư, đây là bản chú giải kinh Vô Lượng Thọ hay khéo, rất nổi tiếng. “Kỳ dư Trí Tràng” (ngoài ra, Trí Tràng), tức là Bảo Tràng. “Bảo Anh, Trung Trụ, Chế Hạnh, Giải Thoát đẳng” (Bảo Anh, Trung Trụ, Chế Hạnh, Giải Thoát v.v...), mấy vị này, “tuy vị kiến kinh chứng” (tuy chưa thấy kinh văn khác để làm chứng), khi đức Phật nói kinh, chẳng nhắc đến tên các Ngài, nhưng trong kinh Vô Lượng Thọ này, đức Phật đă nói đến. “Chuẩn tiền tư chi” (chuẩn theo những điều trên đây để suy luận), chúng ta dùng tiêu chuẩn phía trước cũng có thể biết, “tất ưng thị tha phương lai đại sĩ dă” (nhất định là các đại sĩ từ phương khác đến), nhất định phải là từ thế giới phương khác đến đây, tham gia một lần hoạt động của Thích Ca Mâu Ni, tức đại hội kinh Vô Lượng Thọ. “Án Chân Giải sở chú thị Ngụy dịch” (Xét ra, sách Chân Giải dùng bản dịch đời Ngụy để chú giải), tức bản của ngài Khang Tăng Khải, bản dịch của ngài Khang Tăng Khải rất nổi tiếng tại Nhật Bản. “Ngụy dịch cẩn liệt thập ngũ Chánh Sĩ chi danh” (bản Ngụy dịch chỉ kể tên mười lăm vị Chánh Sĩ), ở đây là mười sáu vị, bản Ngụy dịch chỉ có mười lăm, kể tên mười lăm vị. “Kỳ trung khuyết Huệ Biện Tài Bồ Tát, thử Bồ Tát kiến ư Đường dịch. Chân Giải dĩ vi Tín Huệ tức Huệ Biện Tài” (trong ấy, thiếu Huệ Biện Tài Bồ Tát, vị Bồ Tát này thấy ghi trong bản dịch đời Đường. Sách Chân Giải cho rằng Tín Huệ chính là Huệ Biện Tài). Hiện thời, Tín Huệ và Huệ Biện Tài tách thành hai người, chia ra làm hai người, nên mới “hợp thập lục chi số” (gộp thành con số mười sáu). V́ mười sáu nhằm biểu thị pháp trong Mật Tông, mười sáu tượng trưng cho sự viên măn, chẳng phải là con số thật sự, mà nhằm biểu thị pháp. “Cố tri Tín Huệ Bồ Tát diệc ưng như Bảo Tràng đẳng Chánh Sĩ, diệc thị tha phương lai giả” (Nên biết Tín Huệ Bồ Tát cũng giống các vị Chánh Sĩ như Bảo Tràng v.v... cũng từ phương khác đến). Ngài chẳng phải là Bồ Tát trong thế giới Sa Bà, mà thuộc vào số những vị Bồ Tát ở phương khác đến tham dự pháp hội lần này.

      “Chân Giải ư thử, cánh hữu xiển minh” (Đối với điều này, sách Chân Giải càng giảng rơ). Ở đây, có trích lục đoạn văn trong sách Chân Giải: “Văn viết: Sơ liệt Hiền Hộ đẳng thập lục Chánh Sĩ giả, chương thử pháp bất dĩ xuất gia phát tâm vi bổn” (Nguyên văn: “Đầu tiên nêu lên nhóm Hiền Hộ mười sáu vị Chánh Sĩ để chỉ rơ pháp này chẳng lấy phát tâm xuất gia làm gốc”). Chương () là hiển thị (nêu rơ, chỉ rơ), chương minh (tỏ bày rơ ràng) pháp môn này chẳng lấy phát tâm xuất gia làm căn bản, mà cũng chẳng phải chủ yếu v́ họ (người xuất gia) mà nói. “Thứ liệt tha phương lai giả, chương thập phương Phật độ trung, tất dĩ thử pháp vi xuất thế đại sự cố, cộng lai tinh tấn cầu thử pháp. Thử nghị thậm đắc kinh chỉ” (Kế đến, nêu ra các vị đến từ phương khác, ngụ ư: Trong các cơi Phật khắp mười phương đều dùng pháp này làm đại sự xuất thế, cùng tinh tấn đến cầu pháp này. Lời bàn định ấy rất phù hợp với tông chỉ của kinh). Không lấy xuất gia th́ lấy ǵ làm gốc? Lấy tại gia làm gốc. Đặc biệt trong chín ngàn năm về sau trong thời Mạt Pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật, có thể là người xuất gia càng ngày càng ít, kẻ tại gia tu hành ngày càng đông. Người tại gia tu hành tu pháp môn nào đạt thành tựu? Pháp môn này! Chắc chắn thành tựu. Những vị tại gia Bồ Tát này thị hiện, chứng minh tại gia có thể thành Phật, có thể thành Đẳng Giác, các Ngài đến làm mẫu, khiến cho quư vị sanh khởi tín tâm. Sách Chân Giải nói kiểu này rất tương ứng với tông chỉ của kinh. Tiếp theo là “cái tại gia tu hành, tối nghi tŕ danh niệm Phật dă” (v́ tu hành tại gia th́ tŕ danh niệm Phật là thích hợp nhất). Đầu tiên là ngài Hiền Hộ nêu gương cho chúng ta. “Thập phương đại sĩ tất lai thính pháp, biểu thử pháp thù thắng, thật vi đại sự nhân duyên cố” (mười phương đại sĩ ắt đều đến nghe pháp, biểu thị pháp này thù thắng, thật sự là đại sự nhân duyên). Đại sự là liễu sanh tử, thoát tam giới, chứng Bồ Đề, đắc đại quả; đấy là đại sự nhân duyên.

      Kế đó, Hoàng lăo cư sĩ nghị luận: “Hựu Hiền Hộ biểu Như Lai thiện hộ niệm chư Bồ Tát” (lại nữa, Hiền Hộ biểu thị Như Lai khéo hộ niệm các Bồ Tát). Quả thật danh hiệu có ư nghĩa này. Như Lai có hai ư nghĩa, nói theo Lư là tự tánh. Tư tưởng và ngôn hạnh của con người tương ứng với tánh đức, th́ trí huệ và đức tướng trong tự tánh sẽ thường hiện tiền; v́ sao? Tâm tâm tương ấn, hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng; kinh Hoa Nghiêm nói “tâm hiện, thức biến”. Tự tánh có thể nâng cao năng lượng, nó là căn cứ lư luận để nâng cao cảnh giới của chúng ta, đấy là ư nghĩa thứ nhất. Thứ hai, Như Lai là Thích Ca Mâu Ni Phật, là A Di Đà Phật, là những vị đă tu hành chứng đắc địa vị Diệu Giác. Ư thức của chúng ta chính là “niệm đầu” (ư niệm), ư niệm chẳng thể nghĩ bàn. Từ Hoàn Nguyên Quán, chúng ta thấy: Bất luận hữu tâm hay vô tâm, ư niệm là dao động. Dao động hết sức yếu ớt, nhưng tốc độ của nó quá nhanh, chẳng khởi dao động th́ thôi, hễ dao động dấy lên, lập tức trọn khắp pháp giới. Chúng ta chẳng có cách nào tưởng tượng chuyện này, không ngờ các nhà khoa học Lượng Tử hiện thời đă phát hiện, họ nói hết sức gần gũi với cách giảng của Thích Ca Mâu Ni Phật, họ nói sự dao động ấy cũng trọn khắp pháp giới. Đă là trọn khắp pháp giới, chư Phật Như Lai trong mười phương pháp giới đều nhận được tin tức ấy. Đă nhận được, há lẽ nào chẳng gia tŕ? Như vậy th́ tin tức phát ra là Cảm, chư Phật, Bồ Tát hồi đáp là Ứng; cảm ứng đạo giao chẳng thể nghĩ bàn. Tôi tin tưởng chắc chắn là trong ṿng năm năm, Lượng Tử Lực Học sẽ rất phổ biến, đây là chuyện tốt, sẽ khiến cho người b́nh phàm chúng ta sanh khởi tín tâm khôn sánh. Trên địa cầu có lắm tai nạn như vậy, có thể hóa giải những tai nạn ấy hay không? Có thể! Lượng Tử Học đă trao cho chúng ta lư luận, lư luận ấy ở ngay trong kinh Đại Thừa, từ ba ngàn năm trước Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói tới rồi. Xưa nay đều nói như vậy, có thể thấy điều ấy là thật, chẳng giả. V́ thế, chỉ cần thay đổi ư niệm, vấn đề bèn được giải quyết.

      Bởi lẽ, vào nửa sau năm ngoái, tôi xem đĩa CD của bà Lưu Tố Vân. Đó là [một đĩa ghi lại] cuộc săn tin của một kư giả báo chí, chẳng nhằm điều tra bà ta. Người ấy đi săn một tin khác ở miền Đông Bắc, nghe có chuyện lạ lùng như thế này: Một người mắc chứng Hồng Ban Lang Sang nghiêm trọng ngần ấy, nghiễm nhiên không cần thuốc men, cũng chẳng tiêm thuốc, do niệm Phật mà lành bệnh. Cảm thấy lạ lùng, bèn đến phỏng vấn bà ta. Tôi xem cuộc phỏng vấn được ghi h́nh nửa giờ, đó là ǵ? Ư niệm, hoàn toàn tương ứng với cách nói của Phật và của các nhà Lượng Tử Lực Học. Bệnh tật nặng nề ngần ấy, bà ta chẳng bận tâm. Chư vị phải biết, nếu nhiễm bệnh, thường bận tâm về căn bệnh, sẽ rất khó lành, cuối cùng là một con đường chết mà thôi! Người chẳng có bệnh tật, cơ thể rất khỏe mạnh, thường nghĩ chỗ này đau, chỗ kia nhức, chắc chắn sẽ sanh bệnh! Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng, quư vị nghĩ đến bệnh tật mỗi ngày, làm sao chẳng thể không ngă bệnh? Trong quá khứ, tôi có một người bạn, là bạn xuất gia. Thầy ấy xuất gia từ nhỏ, bị quân đội bắt làm lính, không có cách nào khác! Do vậy, theo quân đội đến Đài Loan, thầy ấy mong thoát khỏi quân ngũ để tiếp tục cuộc sống xuất gia. Làm cách nào đây? Tuổi quá trẻ, mỗi ngày bèn nghĩ ḿnh bị bệnh tim nặng. Thầy ấy nghĩ như thế chưa đầy một năm, quả thật, khám sức khỏe thấy bị bệnh tim. Do vậy, [quân đội] cho giải ngũ, thoát khỏi quân đội, nhưng bệnh tim cả đời chẳng lành, hại thầy ấy suốt đời, từ tâm tưởng sanh đấy mà! Khi ấy, chúng tôi tuổi trẻ, chẳng biết đạo lư này trong Phật pháp. Nếu biết đạo lư này, khuyên bảo thầy ấy, hăy khôi phục ư niệm b́nh thường, chẳng c̣n nghĩ bị bệnh tim nữa, hằng ngày nghĩ đến A Di Đà Phật, bệnh tim sẽ chẳng c̣n, bệnh sẽ chẳng đeo theo nữa! Tâm tưởng sự thành! Mỗi ngày nghĩ tới A Di Đà Phật, trong tương lai quư vị sẽ làm Phật! Mỗi ngày nghĩ tới bệnh tật, chắc chắn quư vị sẽ bị bệnh nặng. Phải hiểu đạo lư này!

      Thuở trước, tôi ở Mỹ, rất ít bị bệnh, có một lần bị cảm, đi bác sĩ, bác sĩ là người Hoa, nói chuyện với tôi cũng rất hợp ư. Có một ngày tôi bảo ông ta: “Bệnh lành không phải do thầy thuốc chữa lành”. Ông ta rất kinh ngạc, hỏi v́ sao? Tôi nói: “Niềm tin chiếm tới bảy mươi phần trăm, bác sĩ [chữa trị] chiếm ba mươi phần trăm. Người bệnh tin tưởng bác sĩ, bác sĩ tin tưởng người bệnh, bệnh ấy rất dễ chữa lành, tín tâm mà! Nếu bác sĩ hoài nghi người bệnh, người bệnh cũng nghi ngờ bác sĩ, nghi ngờ thuốc thang, bệnh ấy chỉ có nặng thêm, chẳng thể b́nh phục tốt đẹp được!” Ông ta nghe xong, cảm thấy rất có lư. Đúng là như vậy, chẳng sai chút nào! Tín tâm làm chủ tể hết thảy, giống như hiện thời các nhà Lượng Tử Lực Học rất khẳng định bảo chúng ta: Ư niệm, năng lượng chẳng thể nghĩ bàn, ư niệm làm chủ tể hết thảy. Thậm chí ư niệm có thể thay đổi quỹ đạo của tinh cầu trong vũ trụ, có năng lượng to lớn như thế. Bản thân mỗi cá nhân đều có ư niệm, nhưng vấn đề là phải tập trung, sức mạnh mới lớn. Ư niệm của chúng ta phân tán, suốt ngày suy nghĩ loạn xạ, nên sức mạnh của nó cũng rất yếu ớt; do vậy, tu Định, Định là ǵ? Định là tập trung ư niệm. Quư vị thấy trong kinh Di Giáo, đức Phật đă nói: “Chế tâm nhất xứ, vô sự bất biện” (chế tâm một chỗ, không chuyện ǵ chẳng làm được). Câu này rất quan trọng. Quư vị có thể tập trung ư niệm, tập trung tại một chỗ, không chuyện ǵ chẳng làm được. Chúng ta muốn hóa giải hết thảy những tai nạn trên địa cầu, tập trung ư niệm sẽ làm được. V́ thế, kỳ đảo có hiệu quả, chẳng phải là không có hiệu quả. Lúc kỳ đảo, ư niệm phải tập trung th́ mới có thể nẩy sanh tác dụng. Nếu ư niệm không tập trung, kỳ đảo sẽ chẳng thể sanh ra hiệu quả. Đều có đạo lư, chẳng phải là mê tín. Do vậy, Hiền Hộ biểu thị Như Lai khéo hộ niệm chư Bồ Tát, dùng ǵ để khéo hộ niệm? Thiện là tốt nhất, hộ niệm tốt nhất, đối với các vị Bồ Tát này, “Nhất Thừa nguyện hải, lục tự hồng danh, tam căn phổ bị, vạn loại tề thâu” (biển nguyện Nhất Thừa, sáu chữ hồng danh, thích hợp khắp ba căn, gồm thâu muôn loài), [dùng] bốn câu này [để “thiện hộ niệm”].

      Thuở tôi c̣n trẻ, tôi nhớ đă giảng kinh điển Tịnh Độ là bộ Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh, tôi tham khảo bản chú giải của pháp sư Quán Đảnh thuộc thời đại Càn Long nhà Thanh trước kia. Trong chú giải, Ngài có nói một câu: Chúng ta gặp khó khăn, cầu Phật, Bồ Tát gia tŕ, dùng những phương pháp trong Phật giáo để hóa giải tai nạn. Ngài nói: Nghiệp chướng của quư vị rất nặng, hết thảy kinh giáo sám pháp cũng chẳng có cách nào tiêu trừ nghiệp chướng của quư vị được, phương pháp ǵ cũng đă dùng hết cả rồi, vẫn chẳng thể tiêu trừ, cuối cùng c̣n có một phương pháp, khẳng định có thể tiêu trừ, phương pháp ǵ vậy? Một câu A Di Đà Phật, nhất tâm chuyên niệm. Khi ấy, chúng tôi đọc chú giải thấy Ngài viết như vậy, không tin, tuy không phản đối, cũng giới thiệu lời Ngài nói, nhưng chẳng tin tưởng điều ấy, [v́] không liễu giải đạo lư. Sau này, chúng tôi học kinh Hoa Nghiêm, học tập Hoàn Nguyên Quán của Hiền Thủ quốc sư mới hoảng nhiên đại ngộ. Lại thấy Lượng Tử Lực Học hiện đại cũng nói như vậy, ư niệm tập trung, sức mạnh ấy rất lớn, tập trung ở chỗ nào? Tập trung trong một câu A Di Đà Phật, sáu chữ hồng danh, hoặc bốn chữ đều được. V́ sao? Càng đơn giản, hiệu quả càng lớn. Một câu Phật hiệu thật sự hữu dụng. Dùng một câu Phật hiệu để gia tŕ hết thảy chư Bồ Tát, từ Sơ Phát Tâm cho đến Đẳng Giác. Tâm quư vị một niềm thanh tịnh niệm câu Phật hiệu này, sức mạnh chẳng thể nghĩ bàn. Trong câu Phật hiệu ấy, A Di Đà Phật là ǵ? Là danh xưng của tự tánh. Đem dịch ra, đấy là tiếng Ấn Độ, tức tiếng Phạn, dịch là Vô Lượng, Phật là Giác Ngộ, [A Di Đà Phật] là Vô Lượng Giác Ngộ, Vô Lượng Giác, Vô Lượng Trí Huệ, Vô Lượng Giác Ngộ. Đó là bản năng trong tự tánh, tự tánh vốn là vô lượng giác. Dùng câu danh hiệu này để khai phát vô lượng trí huệ, vô lượng giác ngộ trong tự tánh của chính ḿnh, tác dụng ấy quá lớn! Thuở đầu chúng tôi học tập kinh giáo, những danh từ thuật ngữ ấy đều rất quen thuộc, v́ sao không thể sanh khởi tín tâm? Chúng tôi chẳng tham cứu thấu triệt kinh giáo, mà cũng chẳng có ai giảng rơ ràng, minh bạch cho chúng tôi. Chúng tôi dùi mài kinh giáo chẳng bỏ, tốn ngần ấy năm công phu, dần dần thông hiểu, từ từ giác ngộ, bèn khẳng định, chẳng c̣n hoài nghi, phương pháp này khởi tác dụng.

      Trong Phật môn, chúng ta niệm A Di Đà Phật, Cơ Đốc giáo niệm Thượng Đế có được hay không? Được! Y Tư Lan giáo (Islam) niệm Chân Chúa, có được hay không? Được! Cùng một đạo lư! Chỉ cần quư vị tập trung ư niệm vào một niệm, sẽ sanh ra năng lượng chẳng thể nghĩ bàn, năng lượng ấy có thể giải quyết hết thảy vấn đề. Do đó, phải hiểu rơ đạo lư, phương pháp chính xác, nhất định chẳng hoài nghi, chẳng mê tín. Hiện tại, rất nhiều người nói tôn giáo là mê tín, chúng ta nghe xong cảm khái ngàn muôn, ai mê tín? Kẻ ấy mê tín. V́ sao nói kẻ ấy mê tín? Quư vị nói tôn giáo là mê tín, tôn giáo là ǵ, quư vị có biết hay không? Kẻ ấy không biết. Không biết th́ xét theo thái độ, quư vị không có tư cách để nói chuyện! Quư vị thiếu tư cách để so sánh, thiếu tư cách để phê b́nh! Quư vị hiểu rơ ràng, nói nó là đúng hoặc chẳng đúng, quư vị có thể nói được. Quư vị chẳng hiểu rơ ràng, sẽ đúng là mê tín. Tự lầm, lầm người, tội lỗi ấy rất ư là nặng. Định luật nhân quả thuộc vào mười pháp giới; chưa vượt khỏi mười pháp giới, quyết định có nhân quả, không có cách nào vi phạm định luật nhân quả. Sau khi vượt thoát mười pháp giới, quư vị giác ngộ toàn bộ, hiểu rơ hoàn toàn, chính ḿnh mới thật sự làm chủ tể, bốn chữ Thường, Lạc, Ngă, Tịnh thật sự làm được, cho nên có Chân Ngă. Thân thể này là Giả Ngă, chẳng phải là Chân Ngă. Sau khi minh tâm kiến tánh, đă t́m được Chân Ngă. Định nghĩa của Ngă là tự tại, là chủ tể. Quư vị thật sự có thể làm chủ. Hiện tại, chúng ta chưa thể làm chủ. Nếu có thể làm chủ, mỗi năm ta đều là mười tám tuổi, đấy mới thật sự là làm chủ! Mỗi năm một già yếu hơn, tức là chưa làm chủ được. “Tôi mỗi ngày vui sướng lắm”, quư vị chẳng làm được! Ngă có nghĩa là chủ tể. Kiến tánh, chủ tể hiện tiền, quư vị thật sự có thể làm chủ. V́ thế, cuối cùng nói: “Chánh thị Hiền Hộ chi nghĩa” (Chính là ư nghĩa của Hiền Hộ). Biển nguyện Nhất Thừa, sáu chữ hồng danh, thích hợp khắp ba căn, gồm thâu vạn loại, mười sáu chữ ấy đă bao gồm toàn bộ nội dung kinh Vô Lượng Thọ. Thích Ca Mâu Ni Phật triệu tập pháp hội này, giảng khóa học này, giảng những điều ǵ? Chính là giảng mười sáu chữ ấy. Đặc biệt là Nhất Thừa rất lỗi lạc. Nhất Thừa là thành Phật, đạt đến viên măn rốt ráo.

      Chúng ta lại xem tiếp: “Hựu Thiện Tư Duy, biểu chánh trí minh liễu, thâm tín Phật huệ, tịnh biểu Pháp Tạng nhân địa ngũ kiếp tư duy, kết đắc đại nguyện chi thắng nhân” (Thêm nữa, Thiện Tư Duy biểu thị chánh trí minh liễu (hiểu trọn vẹn rơ ràng), tin sâu Phật huệ, lại c̣n biểu thị: Ngài Pháp Tạng lúc c̣n tu nhân, tư duy trong năm kiếp, kết thành thắng nhân đại nguyện). Do vậy, danh hiệu đều nhằm biểu thị pháp, tượng trưng cho chánh trí sáng tỏ. Chánh trí không do bên ngoài mà có, mà chính ḿnh vốn sẵn có, như đức Phật đă nói: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ của Như Lai”, đấy là chánh trí. Trí huệ của chúng ta không sáng tỏ, có chướng ngại, thứ ǵ chướng ngại? Vọng tưởng là tầng chướng ngại thứ nhất, phân biệt là tầng chướng ngại thứ hai, chấp trước là tầng chướng ngại thứ ba. Do ba tầng chướng ngại, trí huệ của chúng ta chẳng thể thấu lộ, trí huệ chẳng có. Thật ra, đó là thật, chẳng giả, v́ sao trí huệ chẳng thể thấu lộ? Sau khi trí huệ xuyên qua ba thứ chướng ngại ấy, nó cũng tỏ lộ, nhưng tỏ lộ thành ǵ? Đă bị biến chất, biến thành ǵ? Biến thành phiền năo. V́ thế, trong kinh, đức Phật đă nói rất hay: “Phiền năo tức Bồ Đề, sanh tử tức Niết Bàn”, lời này rất vi diệu. Phiền năo và trí huệ là một chuyện, khi không mê, nó được gọi là trí huệ; khi đă mê bèn gọi là phiền năo. Do vậy, có thể đoạn phiền năo hay không? Chẳng thể đoạn. Phiền năo đă đoạn, trí huệ chẳng c̣n! Chúng là hai mặt của một Thể. Do vậy, lời chánh thuyết trong kinh Phật là: “Chuyển phiền năo thành Bồ Đề”, phải chuyển biến nó, chẳng thể đoạn nó. V́ nó là Tánh Đức trong tự tánh, quư vị chẳng thể đoạn được, nó vĩnh viễn tồn tại, chẳng sanh, chẳng diệt, nhưng nó có mê và ngộ, mê là phiền năo, ngộ là trí huệ.

      Chỉ có chánh trí sáng tỏ, quư vị mới tin sâu Phật huệ. Phật là người chứng đắc minh tâm kiến tánh, v́ sao? Ngài chẳng có phiền năo, hoàn toàn chuyển biến thành trí huệ, quư vị tin tưởng Ngài. Chúng ta chưa chuyển được, vẫn là phiền năo, chẳng chuyển thành Bồ Đề. Sau khi chúng ta đă chuyển được, sẽ giống như các Ngài, Phật Phật đạo đồng, không tăng, không giảm. V́ vậy, Phật pháp vĩnh viễn là pháp b́nh đẳng. Trí huệ của Phật là trí huệ của chính chúng ta, đă hiểu rơ, chẳng c̣n chướng ngại nữa! Nói theo phía Phật, phiền năo của chúng ta chính là trí huệ của Phật, do trong ấy có chướng ngại, nên trí huệ bị biến chất, chuyện là như thế đó! Biến chất là nhất thời, là tạm thời, chẳng phải là vĩnh hằng, rất dễ khôi phục b́nh thường. Khôi phục b́nh thường sẽ chẳng hai, chẳng khác với Phật; v́ thế, Phật tôn trọng phàm phu, chẳng có mảy may tâm lư khinh mạn. Trong mắt Phật, hết thảy chúng sanh đều giống như Ngài, chẳng hai, chẳng khác. Chỉ cần quư vị giác ngộ, chỉ cần quư vị chịu buông vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống, quư vị sẽ giống như Ngài. V́ thế, tin sâu Phật huệ rất khó khăn, chúng tôi huân tập kinh giáo một thời gian lâu như thế mới dần dần thông hiểu, chẳng c̣n có mảy may hoài nghi!

      Về phương diện biểu pháp th́ sao? Ngài cũng hiển thị “Pháp Tạng nhân địa”, Pháp Tạng Bồ Tát là kiếp xưa của A Di Đà Phật. Trước khi Ngài thành Phật, trong quá tŕnh tu hành, Ngài có pháp hiệu là Pháp Tạng, tức tỳ-kheo Pháp Tạng, hoặc Pháp Tạng Bồ Tát. Trong khi tu nhân, Ngài đă tu bao lâu? Năm kiếp, “ngũ kiếp tư duy”, hai chữ [tư duy] trọng yếu, Ngài nghĩ tới ǵ? Nghĩ tới thế giới Cực Lạc, tư duy năm kiếp, suy nghĩ thành công, thế giới Cực Lạc hiện tiền. Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng, chẳng phải là đạo lư như vậy ư? Nay chúng ta hiểu rơ, chúng ta có nhiều đồng học ngần ấy, nếu quư vị hiểu được thâm ư hàm tàng trong câu này, A Di Đà Phật lại c̣n chứng minh cho quư vị, thế giới Cực Lạc thật sự do Ngài tưởng ra, từ trong Không sanh ra Có. Nếu chúng ta có thể sử dụng thời gian năm mươi năm, dùng thời gian một trăm năm để suy tưởng, suy tưởng khiến cho địa cầu khôi phục b́nh thường giống như thế giới Cực Lạc; có thể thành công hay không? Chắc chắn có thể thành công. Chỉ có một niệm, chẳng thể có niệm thứ hai. Niệm thứ hai là xen tạp, phá hoại niệm này. Cùng một đạo lư giống như vậy, chúng ta chỉ có một niệm thanh tịnh, nghĩ thân tâm của chính ḿnh mạnh khỏe, có thể đạt được thân tâm khỏe mạnh hay không? Có thể! Thế gian có pháp hay không? Không có pháp, pháp ǵ cũng không có. Hễ có th́ là ǵ? Có th́ là tâm thái, là ư niệm. V́ thế, các nhà khoa học ngày nay bảo: Tất cả các hiện tượng vật chất trong thế gian đều do ư niệm tích lũy liên tục phát sanh huyễn tướng, được gọi là vật chất. Trên thực tế, không có vật chất, bất cứ vật chất ǵ cũng có thể trở về năng lượng, các khoa học gia đă đưa ra [luận điểm] này rất sớm. Vật chất và năng lượng có thể chuyển biến thành lẫn nhau, họ đưa ra một học thuyết như vậy. Hiện thời, Lượng Tử giảng rơ ràng hơn, hết thảy vật chất đều là ư niệm tích lũy. Một ư niệm tốt, một ư niệm thuần tịnh, thuần thiện, khi hiển lộ sẽ là thế giới Cực Lạc.

      Hiện thời, xă hội rối ren ngần ấy, tai nạn trên địa cầu nhiều ngần ấy, do ǵ? Do ư niệm bất thiện, tự tư tự lợi, tham, sân, si, mạn, tổn người, lợi ḿnh, đều do những ư niệm ấy. Người trên cả thế giới đều có những ư niệm như thế, đó là ư thức của tập thể, sức mạnh to lớn, sức mạnh ấy có thể hủy diệt địa cầu. Chúng ta đă hiểu rơ đạo lư này, muốn cứu vớt địa cầu này th́ phải chuyển biến ư niệm. Một số ít người chuyển được th́ cũng có thể sanh ra hiệu quả chẳng nghĩ bàn. Khoa học gia đă cung cấp một vài con số, đối với số lượng con người trên toàn thế giới, lấy căn bậc hai của một phần trăm con số ấy, sẽ chưa tới tám ngàn người, không phải là tám ngàn vạn, mà là tám ngàn người. Cũng có nghĩa là trên thế giới này, nếu có tám ngàn người tập trung ư niệm, chuyển biến tâm thái thành tốt đẹp nhất, thiện nhất, sẽ có thể hóa giải tai nạn trên thế giới này. Chúng ta có thể tin tưởng [điều ấy] hay không? Hiện thời, cư dân trên địa cầu là sáu mươi ức, [thế mà] tám ngàn người có thể cứu [toàn thể cư dân trên địa cầu], quư vị có tin hay không? Người đông như thế làm chuyện xấu, tám ngàn người tốt có thể cứu! Tôi tin tưởng, dựa vào đâu để tin tưởng? Tổ tông chúng ta có nói: “Tà chẳng thắng chánh”, con người đa số là tà tri tà kiến, tám ngàn người ấy chánh tri chánh kiến, tôi tin tưởng câu ấy, tà chẳng thắng chánh. Phải phát chân tâm, chẳng có chính ḿnh, hễ thêm một chút tâm tự lợi ḿnh vào đó là không được, sẽ là vọng tâm. Chúng ta dùng chân tâm, làm thế nào để biến vọng tâm thành chân tâm? Bốn câu ấy hay lắm: “Nhất Thừa nguyện hải, lục tự hồng danh, tam căn phổ bị, vạn loại tề thâu”, mười sáu chữ ấy quá hay! Trọng yếu nhất là học theo A Di Đà Phật, Nhất Thừa nguyện hải trong khi tu nhân, Nhất Thừa là thành Phật, đạt đến rốt ráo viên măn. Thế giới Cực Lạc do mười sáu chữ ấy tu thành, thiện tư duy đấy! Dùng thời gian năm kiếp [để tư duy], rốt cuộc xuất hiện thế giới Cực Lạc. “Kết đắc đại nguyện chi thắng nhân”, cái nhân thù thắng khôn sánh! Do vậy, thế giới Cực Lạc là quả báo thù thắng khôn sánh!

      “Huệ Biện Tài” Bồ Tát, “biểu minh tín Phật huệ, biện tài vô ngại, tức kinh trung” (Huệ Biện Tài biểu thị tin hiểu Phật huệ, biện tài vô ngại như trong kinh) đă nói: “Diễn từ biện, thọ pháp nhăn, thường dĩ pháp âm giác chư thế gian chi nghĩa” (các ư nghĩa “diễn nói từ vô ngại biện tài, trao truyền pháp nhăn, thường dùng pháp âm giác ngộ các thế gian”). Mấy câu kinh văn này, trong phần sau sẽ được nói đến. Sở dĩ, trong xă hội hiện thời, chúng ta trong hết thảy thời, hết thảy chốn, chẳng bị cảm nhiễm, c̣n có thể ǵn giữ cái tâm thanh tịnh của chính ḿnh, hiểu rơ trí huệ, là do cậy vào đâu? Cậy vào kinh giáo. Tôi tin tưởng các đồng học có cùng cảm nghĩ với tôi, sự vui sướng nhất trong một ngày của chúng ta là ǵ? Khi cùng nhau học tập kinh giáo, vui sướng khôn sánh! Thầy Phương bảo tôi: “[Học Phật là] sự hưởng thụ cao nhất trong đời người”, chúng tôi mới hiểu Thích Ca Mâu Ni Phật suốt ngày giáo học, vui sướng khôn sánh. Thật vậy, chẳng giả! Ngài giáo học chưa hề chẳng gián đoạn, một người Ngài cũng dạy, hai người Ngài cũng dạy, không câu nệ số người bao nhiêu, chẳng có thời gian nhất định, chẳng có nơi chốn nhất định, thấy người [t́m đến học] Ngài bèn dạy, chẳng bỏ sót một ai. Đó là bậc thầy khuôn mẫu, là giáo viên điển h́nh, một vị thầy tốt đẹp! Toàn tâm toàn ư dạy quư vị, chẳng có mảy may tự tư tự lợi, chẳng có! Giúp quư vị khai ngộ, minh tâm kiến tánh, trở về tánh đức. Quư vị thấy sung sướng lắm chứ! Trong giáo lư Đại Thừa, đức Phật thường nói: “Bồ Tát ở chỗ nào đều khiến cho hết thảy chúng sanh sanh tâm hoan hỷ”, pháp hỷ sung măn. Thật đấy, chẳng giả tí nào!

      Tiếp đó: “Quán Vô Trụ, kiến Đường dịch, Ngụy dịch tác Không Vô” ([Danh xưng] Quán Vô Trụ thấy ghi trong bản dịch đời Đường, bản dịch đời Ngụy ghi là Không Vô). Bản Khang Tăng Khải và trong kinh Đại Bảo Tích đều dịch là Không Vô, có cùng ư nghĩa với Quán Vô Trụ. “Biểu kinh trung: Thí thiện huyễn sư, hiện chúng dị tướng, ư bỉ tướng trung, thật vô khả đắc” (Biểu thị ư nghĩa sau đây trong kinh: “Ví như người khéo làm huyễn thuật, hiện các tướng lạ, nhưng các tướng ấy thật sự chẳng thể có được”). Đây là kinh văn trong phần sau, chúng tôi cũng dành lại để giảng sau. Đoạn kinh văn ấy ư vị vô cùng. “Diệc biểu Pháp Tạng vĩnh kiếp nhân hạnh, thuyết Không, Vô Tướng, Vô Nguyện chi pháp” (cũng biểu thị ngài Pháp Tạng bao kiếp tu nhân hạnh, nói các pháp Không, Vô Tướng, Vô Nguyện). Trong danh hiệu này, cũng biểu thị A Di Đà Phật trong khi tu nhân, năm kiếp tu hành, đó là nhân hạnh (hạnh được tu tập trong khi tu nhân); nói Không, Vô Tướng, Vô Nguyện, đây cũng là ba pháp ấn trong Đại Thừa Phật pháp, chúng ta dành lại để học tập trong phần sau.

      “Thần Thông Hoa, biểu tùng thần thông lực, tập vạn hạnh chi đức hoa, dĩ tự trang nghiêm, cụ túc phương tiện, thành tựu chúng sanh. Như kinh vân: Du bộ thập phương, hành quyền phương tiện” (Thần Thông Hoa biểu thị sức thần thông, muôn hạnh kết thành đức hoa để tự trang nghiêm, đầy đủ phương tiện thành tựu chúng sanh như kinh chép: “Dạo chơi mười phương, hành phương tiện quyền biến”), Ngài đại biểu ư nghĩa này. Tự ḿnh thành tựu và giúp đỡ chúng sanh, chẳng thể không có sức thần thông. Sức thần thông có phạm vi rộng lớn vô hạn. Quư vị nh́n chữ Thần () này, chúng tôi thường nói văn tự Trung Quốc là phù hiệu trí huệ. Chúng ta thấy bên trái chữ Thần là chữ Thị (), quư vị xem chữ này viết theo lối chữ Triện sẽ thấy rất rơ ràng. Phía trên là một vạch ngắn nằm ngang, phía dưới là một vạch dài nằm ngang, đó chữ là Thượng viết theo lối chữ Triện thời cổ. Chữ Hạ th́ phía trên dài, phía dưới ngắn, đó là chữ Hạ. Phía dưới chữ Thượng có ba vạch sổ xuống, mang ư nghĩa biểu thị các h́nh tượng trên bầu trời. Nói theo cách bây giờ, tức là hiện tượng tự nhiên. Chữ “Thị” tượng trưng hiện tượng tự nhiên, quư vị thấy hiện tượng tự nhiên. Bên phải là chữ Thân (), chữ Thân viết theo lối chữ Triện sẽ giống như ba cái ải. Ba cửa ải ấy quư vị đều có thể vượt qua, đấy chính là ư nghĩa của chữ Thân. Gộp các ư nghĩa ấy lại, quư vị có thể thông đạt hiện tượng tự nhiên bèn gọi là Thần. Do vậy, đối với hiện tượng tự nhiên trong vũ trụ, quư vị đều biết, đều hiểu rơ, bèn gọi là Thần, mang ư nghĩa ấy. “Thần”“Thông”, sự thông đạt ấy mang ư nghĩa tương thông, nên thường cùng nhau khởi tác dụng, v́ thế gọi là Thần Thông. Quư vị có thể thông đạt hết thảy các pháp, quư vị có năng lực ấy. Đấy là ǵ? Đó là trí huệ, chỉ có trí huệ mới có thể thông đạt, tri thức không được. Tác dụng của tri thức chẳng lớn, nó có hạn cuộc, mà c̣n để lại hậu quả; trí huệ không có [những rắc rối ấy], trí huệ xử lư vấn đề chẳng hạn cuộc, lại c̣n chẳng để lại hậu quả. Trong thế giới hiện thời, dùng tri thức, chẳng dùng trí huệ. Phàm là người dùng trí huệ, tâm thanh tịnh, tâm Định. V́ thế, trong Phật pháp dùng “long tượng” để biểu tượng [điều ấy]: “Na Già[14] thường tại Định, vô hữu bất định thời” (đức Phật thường trong Định, không lúc nào chẳng định), dùng long tượng để biểu thị. Chúng ta chưa thấy rồng, nhưng đă thấy voi. Chúng ta thấy voi to giống như nhập Định. Nó đứng, bốn phương tám hướng b́nh ổn; bước đi, chậm răi, từng bước một, luôn ở trong Định. Đi, đứng, nằm, ngồi, quư vị thấy nó tâm luôn Định, Bồ Tát phải lấy điều đó làm khuôn mẫu, phải thường học theo. Thời thời khắc khắc tâm thanh tịnh, tâm bèn Định. Định sanh Huệ, sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần, phản ứng là trí huệ, chẳng phải là tri thức.

      V́ thế, con người chớ nên tâm tư lao chao, bộp chộp. Kẻ tâm trí lao chao, bộp chộp, thầy chẳng muốn nhận, vị thầy thật sự truyền đạo chẳng muốn nhận quư vị. V́ sao? Quư vị chẳng học được! Thầy thấy quư vị trầm tĩnh, ổn trọng, ổn định, người này là nhân tài, là pháp khí, thầy sẽ thật sự giúp quư vị. Quư vị không muốn học, thầy cũng t́m cách khiến cho quư vị học. V́ sao? Thầy v́ truyền đạo, chẳng phải v́ một ai! Quan trọng là chánh pháp đại đạo phải có người tiếp nhận, truyền thừa, điều này là quan trọng! Gặp người như thế, thầy chắc chắn chẳng vứt bỏ, phải thành tựu kẻ ấy, tuy kẻ ấy chẳng có liên quan ǵ đến ta, vẫn phải truyền đạo. Đó là đại từ đại bi, chịu trách nhiệm đối với chánh pháp, chịu trách nhiệm đối với hết thảy chúng sanh. Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học tới đây. Ngày mai chúng ta học từ Quang Anh Bồ Tát.

Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

Phần 48

 



[1] Ở đây, Ḥa Thượng giảng thêm về danh xưng Sa Bà, những câu này trích từ Phật Học Đại Từ Điển của Đinh Phước Bảo, chứ không phải là những câu được viết trong bộ Chú Giải của cụ Hoàng Niệm Tổ.

[2] Pháp Hoa Huyền Tán có tên đầy đủ là Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Tán, gồm mười quyển, do ngài Khuy Cơ soạn. Trong tác phẩm này, Khuy Cơ đại sư đă dựa trên lập trường Pháp Tướng Duy Thức, nhất là lư luận trong Nhiếp Đại Thừa Luận để phán định Nhất Thừa, Tam Thừa, phê b́nh các thuyết của tông Thiên Thai và Hoa Nghiêm. Ngài trích dẫn rất nhiều đoạn từ Pháp Hoa Luận của Thế Thân Bồ Tát để nhận định về duyên khởi của kinh Pháp Hoa, xiển minh tông chỉ, giải thích tựa đề kinh, cũng như giải thích đại lược nội dung chánh kinh.

[3] Ở đây, tên tác phẩm bị nói lầm, phải là Pháp Hoa Huyền Tán.

[4] Đây là nói theo cách phát âm đời Đường, chứ nếu căn cứ theo âm đọc Quan Thoại hiện thời (Sa Bà là Suō Pó và Sách Ha là Suǒ Hē), sẽ thấy cả hai âm đều chẳng có âm nào gần với âm tiếng Phạn Sahaloka-dhatu.

[5] Phật Tổ Thống Kư, đúng ra phải là Phật Tổ Thống Kỷ (佛祖統紀) là một tác phẩm do ngài Chí Khánh soạn vào đời Tống gồm năm mươi bốn quyển, chép về lịch sử Phật giáo. Sách bắt đầu bằng Thích Ca Mâu Ni Phật Bổn Kỷ, kế tiếp là truyện kư của lịch đại tổ sư Trung Quốc. Theo sách này, đức Phật giáng sanh vào năm thứ hai mươi bốn đời Châu Chiêu Vương (1029 trước Công Nguyên). Sách chép các sự kiện Phật giáo từ năm 1027 trước Công Nguyên đến năm Hàm Thuần thứ năm (1259) đời Tống Độ Tông, chú trọng chủ yếu sự truyền thừa của tông Thiên Thai, đồng thời nói thêm một số tông phái khác.

[6] Bản kinh này có tên gọi đầy đủ là Độ Thế Phẩm Kinh, do ngài Pháp Hộ xứ Đại Nhục Chi dịch vào đời Tây Tấn, gồm sáu quyển. Đây là một bản dịch khác của phẩm Ly Thế Gian trong kinh Hoa Nghiêm.

[7] Kim Cang Lực Sĩ (Vajrapānibalin): Trong Mật Tông, danh xưng này có hai cách hiểu:

1. Danh xưng của một vị hộ pháp thần, thường là Bồ Tát hoặc cổ Phật thừa nguyện ủng hộ Phật pháp, hóa hiện thân tướng dũng mănh, phẫn nộ, đáng sợ, cầm Kim Cang Xử hộ tŕ Tam Bảo. Vị Kim Cang Lực Sĩ nổi tiếng nhất tên là Mật Dao, c̣n gọi là Na La Diên đă phát nguyện hộ tŕ một ngàn vị Phật trong Hiền Kiếp. Theo hội Kim Cang Lực Sĩ trong kinh Đại Bảo Tích, vào thời quá khứ, Chuyển Luân Thánh Vương Dũng Quân có một ngàn lẻ hai người con trai. Hai người con trai út là Pháp Ư và Pháp Niệm. Pháp Ư phát nguyện khi một ngàn vị vương tử thành Phật, sẽ theo hộ tŕ, làm Kim Cang Lực Sĩ để hộ tŕ những pháp bí yếu của Phật.

2. Kim Cang Lực Sĩ là từ ngữ gọi gộp chung của Kim Cang và Lực Sĩ. Kim Cang c̣n gọi là Nan Thắng Kim Cang là danh xưng của các vị hộ pháp cầm Kim Cang Xử thủ hộ, ngăn ngừa kẻ ác phá hoại. Lực Sĩ cũng là thần thủ hộ tương ứng thường đi chung với Kim Cang, nên c̣n gọi là Đối Diện Kim Cang. Các tự viện thường đắp tượng hai vị này thủ hộ hai bên Đại Hùng Bảo Điện. Có thuyết lại nói vị bên trái là Tả Phù Kim Cang (tức Mật Dao Kim Cang), vị bên trái là Hữu Bật Kim Cang (tức Na La Diên). Hiểu theo nghĩa này th́ Na La Diên khác với Mật Dao Kim Cang.

Như vậy là khi dùng danh xưng Lực Sĩ, đă hạn cuộc trong ư nghĩa các vị Đại Bồ Tát hóa thân làm thần hộ pháp.

[8] Kinh này có tên gọi đầy đủ là Văn Thù Sư Lợi Phật Độ Nghiêm Tịnh Kinh do ngài Trúc Pháp Hộ dịch vào đời Tây Tấn. Đây là một bản dịch khác của hội Văn Thù Sư Lợi Thọ Kư trong kinh Đại Bảo Tích. Kinh này trần thuật công đức và sự nghiêm của cơi Tịnh Độ của ngài Văn Thù sau khi thành Phật.

[9] Tác phẩm này có tên gọi đầy đủ là Kim Cang Đảnh Du Già Tam Thập Thất Tôn Xuất Sanh Nghĩa, do ngài Bất Không dịch, nội dung giải thích ư nghĩa từ Pháp Thân xuất sanh ba mươi bảy tôn thánh trong Kim Cang Giới Mạn Đồ La. Ba mươi bảy tôn thánh chính là:

- Năm vị Phật ứng với Ngũ Trí của Như Lai (Đại Nhật Như Lai, A Súc Như Lai, Bảo Sanh Như Lai, Vô Lượng Thọ Như Lai, và Bất Không Như Lai), mỗi vị Phật có bốn vị Bồ Tát chầu hầu. Chẳng hạn như Vô Lượng Thọ Như Lai kết Di Đà Định Ấn, có các vị Bồ Tát Kim Cang Pháp, Kim Cang Lợi, Kim Cang Nhân, Kim Cang Ngữ chầu hầu.

- Bốn vị Ba La Mật Bồ Tát: Kim Cang Ba La Mật, Bảo Ba La Mật, Pháp Ba La Mật và Nghiệp Ba La Mật (bốn vị này chầu hầu Đại Nhật Như Lai).

- Mười sáu vị Đại Bồ Tát (các vị này vây quanh bốn vị Như Lai c̣n lại): Kim Cang Tát Đỏa, Kim Cang Vương, Kim Cang Ái, Kim Cang Hỷ, Kim Cang Bảo, Kim Cang Quang, Kim Cang Tràng, Kim Cang Tiếu, Kim Cang Pháp, Kim Cang Lợi, Kim Cang Nhân, Kim Cang Ngữ, Kim Cang Nghiệp, Kim Cang Hộ, Kim Cang Nha, Kim Cang Quyền.

- Tám vị cúng dường Bồ Tát: Kim Cang Hy Hư, Kim Cang Hoa Man, Kim Cang Ca Vịnh, Kim Cang Pháp Vũ, Kim Cang Phần Hương, Kim Cang Giác Hoa, Kim Cang Đăng Minh, Kim Cang Đồ Hương. Bốn vị đầu gọi là Nội Cúng Dường do Đại Nhật Như Lai lưu xuất để cúng dường bốn vị Như Lai kia, bốn vị sau là Ngoại Cúng Dường, do bốn vị Phật kia lần lượt lưu xuất để cúng dường Đại Nhật Như Lai.

- Tứ Nhiếp Bồ Tát: Kim Cang Câu, Kim Cang Tác, Kim Cang Tỏa, Kim Cang Linh.

[10] Sách Danh Nghĩa Tập có tên gọi đầy đủ là Phiên Dịch Danh Nghĩa Tập, gồm bảy quyển do ngài Pháp Vân biên soạn, hoàn thành vào năm Thiệu Hưng 13 (1143) đời Nam Tống. Sách được chia thành 44 thiên, gồm 2.000 từ ngữ nhằm giải thích các danh từ thường dùng trong kinh Phật. Đối với mỗi từ gồm có phần nêu các cách phiên âm khác nhau của cùng một từ ngữ, phân biệt cách dịch nào là dịch theo ư, cách dịch nào là dịch sát nghĩa, đồng thời dẫn chứng các kinh luận tương quan.

[11] Cư sĩ Vương Ân Tường (1897-1964) là người huyện Nam Sung, Tứ Xuyên, có tên tự là Hóa Trung. Ông học Duy Thức với Âu Dương Cánh Vô và được coi là đệ tử nhập thất. Năm 1925, đảm nhiệm dạy Duy Thức tại Chi Na Nội Học Viện. Năm 1942 sáng lập Đông Phương Văn Giáo Nghiên Cứu Viện, kể từ năm 1957 ông dạy học tại Phật Học Viện Trung Quốc. Ông sở trường về Duy Thức, các tác phẩm Nhiếp Đại Thừa Luận Sớ, Duy Thức Thông Luận, Tâm Kinh Thông Giải, Phật Học Thông Luận, Nhân Sinh Học, Khởi Tín Luận Liệu Giản của ông được đánh giá rất cao.

[12] Bản kinh này có tên gọi đầy đủ là Tứ Đồng Tử Tam Muội Kinh do ngài Xà Na Quật Đa dịch vào đời Tùy, ba quyển, chính là một bản dịch khác của sáu phẩm đầu kinh Phương Đẳng Bát Nê Hoàn Kinh. Trong kinh này, đức Phật sắp nhập diệt tại thành Câu Thi Na, đă giảng đạo Niết Bàn cho A Nan, A Nậu Lâu Đà và bốn vị đại Bồ Tát tại gia.

[13] Kinh Phật Danh có tên đầy đủ là Phật Thuyết Phật Danh Kinh, gồm mười hai quyển, do ngài Bồ Đề Lưu Chi dịch vào thời Nguyên Ngụy. Do trong kinh liệt kê hơn một vạn vị Phật (khoảng chừng 11.093 vị Phật), đồng thời liệt kê thêm danh hiệu của vài trăm vị Bích Chi Phật và Bồ Tát, nên bản dịch tiếng Việt ghi là kinh Vạn Phật.

[14] Na Già có nghĩa gốc là rồng (phiên âm của chữ Nāga). Kinh Phật thường gọi Phật hoặc A La Hán là Ma Ha Na Già, nhằm sánh ví bậc đại lực dụng, giống như rồng có thể ẩn hiển khôn lường. Huyền Ứng Âm Nghĩa quyển 3 giảng: “Na Già có ba nghĩa, một là rồng, hai là voi, ba là Bất Lai, Khổng Tước Kinh gọi Phật là Na Già, do Phật chẳng c̣n sanh tử”. Đại Nhật Kinh Sớ, quyển 5, giảng: “Ma Ha Na Già là biệt hiệu của Như Lai, do Ngài có đại dụng không ngằn mé, chẳng thể nghĩ bàn”.